Vòng đời của một lời nói dối – P2

Zimbardo có vẻ như đã bắt đầu câu chuyện về cuộc thí nghiệm trong nhà tù Stanford vào Chủ nhật, 15 tháng 8 năm 1971, khi các lính canh bắt đầu quấy nhiễu những tù nhân mới đến tại “Nhà tù Stanford” – khiến nó nghe như thể họ trở nên lạm quyền theo cách riêng của mình – thực chất, hơn thế nữa thí nghiệm đã bắt đầu sớm hơn một ngày với cuộc họp định hướng cho các cai ngục. Ở đó, Zimbardo đề cập rằng họ không phải là đối tượng thí nghiệm mà là những cộng tác viên, anh ta đặt ngón tay cái lên bàn cân, thể hiện rõ ràng với các cai ngục rằng vai trò của họ là giúp tạo ra tư duy của tù nhân thiên về về sự bất lực và sợ hãi.

Zimbardo nói với họ, lời nói này được ghi lại trong bản ghi âm được phát hành lần đầu vào một thập kỷ rưỡi sau cuộc thí nghiệm : “Chúng ta không thể ngược đãi hoặc tra tấn họ về thể chất, nhưng chúng ta có thể tạo ra sự nhàm chán. Chúng ta có thể tạo ra cảm giác thất vọng, cảm giác sợ hãi ở một mức độ nào đó… Chúng ta nắm toàn quyền trong tình huống này, mà họ thì không có điều ấy.”

Phần lớn cuộc họp được chỉ đạo bởi David Jaffe, một sinh viên đại học làm việc với tư cách “Warden”, người có đóng góp nền tảng cho thí nghiệm Zimbardo, người đã bị đánh giá thấp từ lâu trước đây. Jaffe và một vài sinh viên khác đã nung nấu ý tưởng về nhà tù mô phỏng vào khoảng ba tháng trước đó để hoàn thành bài tập của Zimbardo ở lớp. Jaffe đã chọn một số bạn cùng ký túc xá của mình ở Toyon Hall làm tù nhân và một số khác làm lính canh. Anh ta đưa ra 15 quy tắc nhà tù hà khắc để cai ngục của anh ta thực thi, bao gồm: “Các tù nhân chỉ được gọi nhau bằng số”; “Các tù nhân không bao giờ được nói về tình cảnh của họ như họ đang tham gia “thử nghiệm” hoặc đây chỉ là “mô phỏng” và “Việc không tuân theo bất kỳ quy tắc nào kể trên có thể bị phạt.” Zimbardo đã rất hứng thú với những giọt nước mắt và sự kịch tính của 2 ngày mô phỏng mà Jaffe đã thực hiện đến mức anh ta quyết định tự mình thực hiện chúng, khác ở chỗ lần này các cai ngục và tù nhân được chỉ định ngẫu nhiên và sẽ kéo dài thực nghiệm trong thời gian lâu hơn.

Bởi vì bản thân Zimbardo chưa bao giờ đến thăm một nhà tù thực sự, do đó các điều kiện của nhà tù được xây dựng dựa trên nghiên cứu về nhà tù của Jaffer và dựa trên các hồi ức u ám của Carlo Prescott – người vừa được ân xá ở San Quentin, Zimbardo gặp gỡ gã thông qua Jaffer và sao đó thuê ông ta như một cố vấn.

Jaffe được giao trọng trách định hình thí nghiệm nhà tù Stanford nhằm tái dựng lại kết quả trước đó của anh ta. “Dr. Zimbardo cho rằng vấn đề khó khăn nhất sẽ là khiến các lính canh cư xử như những lính canh thực thụ, ”Jaffe viết trong một đánh giá sau thí nghiệm. “Tôi được yêu cầu đề xuất chiến thuật dựa trên kinh nghiệm trước đây của mình với tư cách là bậc thầy của những trò ác độc. … Tôi được giao trách nhiệm cố gắng khơi gợi hành vi ‘cai ngục cứng rắn”.

Mặc dù Zimbardo thường nói rằng các cai ngục đã nghĩ ra các quy tắc của riêng họ, nhưng trên thực tế, hầu hết họ đều copy nguyên bản như bài tập của Jaffe được trình bày trong cuộc họp định hướng vào thứ Bảy trước. Jaffe cũng đưa ra ý tưởng cho các cai ngục về việc gây rắc rối cho các tù nhân, bao gồm cả việc buộc họ phải dọn sạch những chiếc gai từ mấy chiếc chăn bẩn bị vứt trong mấy đám cỏ dại.

Khi quá trình mô phỏng được tiến hành, Jaffe đã dứt khoát nhắc nhở rằng các lính canh không hành động đủ cứng rắn, không khơi gợi được chính xác hành vi bệnh hoạn mà sau này Zimbardo cho rằng chúng đã phát sinh một cách tự nhiên.

“Các cai ngục phải biết rằng mọi cai ngục sẽ là những gì mà chúng tôi gọi là người cai ngục cứng rắn,” Jaffe nói với một cai ngục như vậy [Tời đến 8:35]. “[H]y vọng rằng những gì đúc kết từ nghiên cứu này sẽ là những lời giới thiệu nghiêm túc cho công cuộc cải cách… để nó có thể mang chúng ta xuất hiện trên các phương tiện truyền thông và báo chí, và khi ấy chúng ta sẽ dõng dạc nói ‘Giờ hãy nhìn xem, đây chính là sự thật đấy’..

Mặc dù hầu hết các cai ngục đều có màn trình diễn mờ nhạt, một số thậm chí còn cố gắng tạo những ưu ái nho nhỏ cho các tù nhân, nhưng một người đặc biệt đã vượt qua thử thách: Dave Eshleman, người mà các tù nhân đặt biệt danh là “John Wayne” vì giọng miền Nam và óc sáng tạo tàn ác. Nhưng Eshleman, người đã học diễn xuất trong suốt thời trung học và đại học, luôn thừa nhận rằng ngữ âm của cậu là giả vờ, cũng giống như sự suy sụp của Korpi. Mục tiêu chính của cậu như đã nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn, chỉ đơn giản là giúp cuộc thử nghiệm thành công mà thôi.

Eshleman nói: “Tôi coi nó như một bài tập tùy hứng. “Tôi tin rằng tôi đang làm những gì những nhà nghiên cứu muốn tôi làm và tôi nghĩ rằng bản thân mình sẽ làm điều đó tốt hơn bất kỳ ai khác bằng cách tạo ra nhân vật cai ngục đáng khinh này. Tôi chưa bao giờ đến miền Nam, nhưng tôi sử dụng giọng miền Nam, thứ tôi học được từ Cool Hand Luke. ”

Eshleman bày tỏ sự hối hận với tôi về cách anh đã ngược đãi các tù nhân, anh ấy nói thêm rằng anh chỉ toàn vận dụng trải nghiệm bị ngược đãi của chính mình trước đó vài tháng. Anh ấy nói: “Tôi chỉ làm hơi quá lên một chút thôi.” Nhưng Zimbardo và các nhân viên của anh ta có vẻ đã chấp thuận điều đó. Sau khi thử nghiệm kết thúc, Zimbardo gọi Eshleman đến và cảm ơn anh ta.

“Khi tôi đang đi bộ xuống hành lang,” Eshleman nhớ lại, “anh ấy đã đến và cho tôi biết tôi đã hoàn thành được một công việc tuyệt vời như thế nào. Tôi thực sự cảm thấy như mình đã hoàn thành điều gì đó tốt đẹp vì tôi đã đóng góp một phần nào đó vào sự hiểu biết về bản chất con người. “

Theo Alex Haslam và Stephen Reicher, các nhà tâm lý học đã đồng chỉ đạo một thử nghiệm nhân bản của Nhà tù Stanford ở Anh vào năm 2001, một yếu tố quan trọng trong việc khiến con người thực hiện hành vi tàn bạo là bởi vì người lãnh đạo đảm bảo với họ rằng họ đang hành động vì sự phụng sự cấp trên nền tảng đạo đức mà họ xác định là, ví dụ như, vì sự tiến bộ khoa học hoặc cải cách nhà tù. Chúng tôi đã được dạy rằng cai ngục lạm dụng tù nhân trong Thí nghiệm nhà tù Stanford là bởi vì quyền lực từ vai trò của họ, nhưng Haslam và Reicher lập luận rằng hành vi của họ xuất hiện là vì sự đồng nhất hóa của họ với những người thử nghiệm, điều mà Jaffe và Zimbardo luôn khuyến khích. Eshleman, người đã tự mô tả mình trong bảng câu hỏi tuyển dụng là một “nhà khoa học có tâm – có thể là người nổi bật hơn bất kỳ người nào khác, và Jaffe đã đánh giá điều này rất cao: “Tôi giật mình vì sự dễ dàng mà tôi có thể tắt sự nhạy cảm và quan tâm của tôi đối với người khác vì ‘một lý do chính đáng. “ Tôi giật mình bởi sự nhạy bén và khơi gợi mối quan tâm của tôi đối với người khác có thể bị đánh bật dễ dàng chỉ bằng ‘một lý do chính đáng’”.

****

Ngay từ đầu, Zimbardo đã tìm kiếm danh vọng cho thí nghiệm của mình, anh ta cho phép KRON, một đài truyền hình ở San Francisco quay phim các vụ bắt giữ giả và gửi cho họ các bài viết định kỳ khi có tiến triển mới. Nhưng mô phỏng nhà tù của Zimbardo nhanh chóng thu hút được nhiều sự chú ý của báo chí hơn những gì anh ta có thể tưởng tượng.

Vào ngày 21 tháng 8, một ngày sau khi nghiên cứu bị đóng cửa sớm hơn dự kiến, toan tính trốn khỏi San Quentin, theo hướng một giờ về phía bắc Stanford Của George Jackson, nhà hoạt động da đen cực đoan và tác giả của cuốn sách bestselling ‘Anh em Soledad’, đã dẫn đến cái chết của ba cai ngục và ba tù nhân, bao gồm cả Jackson. Chỉ trong thời gian ngắn, KRON đã sắp xếp một cuộc tranh luận trên truyền hình giữa Zimbardo và phó giám thị của San Quentin. Ba tuần sau, các tù nhân chủ yếu là người Mỹ gốc Phi tại Nhà tù bang Attica ở New York đã giành quyền kiểm soát nhà giam từ các nhân viên quản ngục hầu như đều là người da trắng, họ yêu cầu được đối xử tốt hơn. Được lệnh của Thống đốc Nelson Rockefeller tái giành quyền kiểm soát nhà tù bằng vũ lực, máy bay trực thăng ném hơi cay và hàng trăm người thuộc lực lượng thực thi pháp luật và lính gác Attica có vũ trang đã bắn mù mịt vào làn khói, tàn sát các tù nhân và con tin.

Theo Ủy ban đặc biệt bang New York (New York State Special Commission) ở Attica, trong thời đại mà khi các vụ xả súng hàng loạt chưa là từ quy chuẩn được sử dụng trên các mặt báo nước Mỹ, đây chính là một cuộc tắm máu gây chấn động – một trong những cuộc tàn sát đẫm máu nhất kể từ sau Nội chiến. Cả đất nước như đang rạo rực lục tìm cho ra câu trả lời, và thực nghiệm của Zimbardo dường như đã trả lời họ, đặt các cai ngục và tù nhân trên cùng một bình diện đạo đức – đều là nạn nhân của chính quyền Carceral – mặc dù trên thực tế, gần như tất cả các vụ giết người ở Attica đều do lính canh và sĩ quan thực hiện. Câu chuyện của Zimbardo về những tên cai ngục chạy trốn và những tù nhân bị khủng bố lần đầu được công chúng biết đến từ một chương trình đặc biệt kéo dài 20 phút trên NBC. Richard Yacco nói với phóng viên của NBC rằng, anh ta và các tù nhân khác đã được thông báo họ không thể từ bỏ thực nghiệm, nhưng, sau khi anh ta thất bại trong việc hạ bệ câu chuyện của Zimbardo về các tù nhân tự nhiên “nhập vai” vào vai trò của họ, anh ta đã bị edit khỏi chương trình (đoạn ghi âm vẫn còn).

Trong bài báo năm 1973 trên Tạp chí New York Times, Zimbardo đã viết một cách rõ ràng rằng sự suy sụp của Korpi là có thật. Vào giữa những năm 1980, khi anh ta yêu cầu Korpi xuất hiện trong chương trình của Phil Donahue và trong bộ phim tài liệu Quiet Rage, Korpi đã nói rõ rằng anh ta đã vờ làm điều ấy, nhưng Zimbardo vẫn muốn rằng sự suy sụp ấy là thật. Thế nên Korpi đã kể theo như vậy.

“Nếu anh ấy muốn tôi nói tôi đã bị suy sụp tinh thần, đó có vẻ là một chi tiết không quan trọng lắm,” anh ấy nói với tôi. “Tôi không thực sự phản đối. điều ấy Tôi nghĩ rằng đó là một sự phóng đại nhằm phục vụ cho mục đích của Phil. “

Trong Quiet Rage, Zimbardo đã giới thiệu đoạn âm thanh kịch tính về “sự suy sụp” của Korpi bằng cách nói “anh ấy bắt đầu đóng vai một kẻ điên nhưng ngay sau đó vai diễn này trở nên quá thực khi anh ấy lên cơn cuồng nộ không thể kiểm soát.” Một phân đoạn được ghi âm trong đó Korpi thừa nhận đã giả vờ và mô tả cảm giác mệt mỏi khi phải cố diễn như vậy trong nhiều giờ đã bị chỉnh sửa. Korpi nói với tôi rằng Zimbardo đã nài nỉ anh ấy để anh xuất hiện trên các phương tiện truyền thông trong một thời gian dài cho tới khi Korpi yêu cầu anh ấy dừng lại, Zimbardo còn gây áp lực cho anh ấy bằng những lời đề nghị giúp đỡ Zimbardo về chuyên môn.

“Chúng tôi đã không công khai các con số và [Zimbardo] đã tìm ra số không công khai của chúng tôi,” Korpi nói. “Chỉ là hơi kỳ lạ thôi. Tôi đã luôn nói với anh ấy, “Tôi không muốn liên quan gì đến thực nghiệm nữa.” “Nhưng Doug, nhưng Doug, anh rất quan trọng! Và tôi sẽ mang tới cho anh thật nhiều thư tiến cử giáo sư!”. “ Vâng, tôi biết Phil, nhưng giờ tôi đã phát ngán với tòa ngay rồi và tôi thật đáng xấu hổ làm sao. Tôi không muốn điều đó trở thành tâm điểm bàn tán của công chúng nữa.” Nhưng Phil không muốn nghe việc tôi không muốn dính líu thêm nữa. Điều ấy đã diễn ra trong nhiều năm. ”

Thí nghiệm trong nhà tù Stanford đã biến Zimbardo trở thành nhà tâm lý học người Mỹ còn sống nổi tiếng nhất. Ông trở thành tác giả chính của một trong những cuốn sách giáo khoa dài và phổ biến nhất trong lĩnh vực này, Tâm lý học: Khái niệm cốt lõi, và là người dẫn chương trình của loạt video PBS năm 1990, Khám phá tâm lý học, những thứ được sử dụng rộng rãi trong các lớp trung học và đại học và tới nay vẫn còn được chiếu. Cả hai chương trình kể trên đều giới thiệu về thí nghiệm trong nhà tù Stanford.

Và sự phổ biến của nó không chỉ giới hạn ở Hoa Kỳ. Nhà triết học người Ba Lan Zygmunt Bauman đã trích dẫn thực nghiệm trong ‘Modernity and the Holocaust’ năm 1989 để giải thích cho một truyền thống đang phát triển ở Đông u và Đức – Thảm sát. Trong cuốn sách nổi tiếng của mình, Ordinary Men, năm 1992, nhà sử học Christopher Browning đã dựa trên cả Thí nghiệm nhà tù Stanford và Thí nghiệm Milgram, một nền tảng tâm lý xã hội khác, để lập luận rằng những vụ thảm sát hàng loạt của Đức Quốc xã, một phần là kết quả của các yếu tố tình huống. 2001, cùng năm Zimbardo được bầu làm chủ tịch Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, đã chứng kiến sự kiện phát hành một bộ phim nói tiếng Đức, Das Experiment, dựa trên SPE nhưng đã làm tăng mức độ bạo lực lên đến mức xứng tầm với Đức Quốc xã, ở đó các lính canh không chỉ lạm dụng tù nhân, mà còn giết họ và khiến họ giết hại lẫn nhau. Khi tình trạng lạm dụng tù nhân tại Abu Ghraib được đưa ra ánh sáng vào năm 2004, Zimbardo một lần nữa lại tạo ra các talk show, lập luận rằng việc lạm dụng không phải do một vài người lính là “táo hỏng” mà là do một “thùng táo hỏng” và cung cấp cho các chuyên gia lời khai đại diện của “Chip” Frederick, trung sĩ giám sát các cảnh sát vi phạm luật pháp. Với sự quan tâm nổi lên trở lại về thực nghiệm, Zimbardo đã xuất bản “Hiệu ứng Lucifer” vào năm 2007, cung cấp nhiều thông tin chi tiết về thực nghiệm hơn bao giờ hết, nhưng đóng khung theo cách để tránh gợi lên những chi tiết cơ bản trở thành nghi vấn. Cuốn sách cũng đã trở thành sách bán chạy nhất tại Mỹ.

Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, các chuyên gia vẫn nghi ngờ về việc làm của Zimbardo.

***

Bất chấp trạng thái kiểu mẫu của thí nghiệm nhà tù Stanford trong các lớp tâm lý học trên khắp đất nước ngày nay, những chỉ trích về phương pháp luận của nó đã nhanh chóng lan rộng trong nhiều năm sau khi nó được đưa vào giảng dạy. Zimbardo và các sinh viên của ông đã xuất bản bài báo đầu tiên của họ – ‘Đi lệch khỏi quy trình khoa học’ về thí nghiệm của họ không phải trên một tạp chí tâm lý học hàn lâm mà trên tạp chí The New York Times, bỏ qua các đánh giá của các đồng nghiệp.

Nhà tâm lý học nổi tiếng Erich Fromm, người không biết rằng các cai ngục đã được hướng dẫn rõ ràng là phải “cứng rắn”, nhưng vẫn cho rằng họ bị buộc trước những áp lực rõ ràng là phải bạo lực tù nhân, điều đáng ngạc nhiên nhất về thí nghiệm là cách mà một số lính canh đã thực hiện. Fromm viết: “Các tác giả tin rằng điều ấy chứng minh là chỉ trong vòng vài ngày có thể biến những người bình thường thành những kẻ đáng khinh, ngoan ngoãn phục tùng hoặc thành những kẻ bạo lực tàn nhẫn. “Đối với tôi, dường như thực nghiệm chứng minh, nếu có, là điều ngược lại.” Một số học giả đã lập luận rằng đó hoàn toàn không phải là một thực nghiệm. Leon Festinger, nhà tâm lý học, người đi đầu trong khái niệm về sự bất hòa nhận thức (cognitive dissonance), đã bác bỏ nó như một “sự cố”.

Một loạt các phê bình liên tục xuất hiện trong nhiều năm qua, mở rộng cuộc chỉ trích cuộc thực nghiệm sang nhiều vấn đề kỹ thuật hơn thay vì chỉ xoay xung quanh phương pháp luận của nó, chẳng hạn như đặc điểm nhu cầu, tính hợp lệ của môi trường thí nghiệm và lựa chọn thiên kiến. Năm 2005, Carlo Prescott, người được ân xá ở San Quentin, người đã cố vấn cho thiết kế của thực nghiệm, đã xuất bản một Op-Ed trên Nhật báo Stanford có tựa đề “Lời nói dối của Thí nghiệm trong nhà tù Stanford”, tiết lộ rằng nhiều kỹ thuật của cai ngục để hành hạ tù nhân đã được lấy từ kinh nghiệm của chính anh ấy tại San Quentin chứ không phải do những người tham gia tự chế ra.

Trong một động thái khác nhắm vào độ uy tín khoa học của thực nghiệm, Haslam và Reicher đã cố gắng tái thực hiện lại thực nghiệm, trong đó lính canh không được huấn luyện và các tù nhân được tự do từ bỏ bất cứ khi nào, nhưng họ đã không thể tạo ra những phát hiện của Zimbardo. Không bị suy sụp bởi sự bóc lột, trái lại các tù nhân đã tập hợp lại với nhau và giành thêm đặc quyền từ các cai ngục, những người ngày càng trở nên thụ động và thu mình. Theo Reicher, Zimbardo đã không làm rõ tốt điều này khi họ cố gắng công bố phát hiện của mình trên Tạp chí Tâm lý Xã hội của Anh.

“Chúng tôi phát hiện ra rằng anh ta đã viết thư riêng cho các biên tập viên để cố gắng ngăn chúng tôi đăng tải các bài viết lên báo bằng cách tuyên bố rằng chúng tôi dối lừa,” Reicher nói với tôi.

Bất chấp sự ngăn cản của Zimbardo, tạp chí đã quyết định xuất bản bài báo của Reicher và Haslam cùng với một bài tường thuật của Zimbardo, trong đó anh ta viết, “Tôi tin rằng ‘nghiên cứu lĩnh vực tâm lý xã hội’ bị cáo buộc gian lận và sẽ không được cộng đồng tâm lý xã hội ở Anh chấp nhận, Hoa Kỳ hoặc bất cứ nơi nào ngoại trừ trong lĩnh vực tâm lý truyền thông. “

“Cuối cùng,” Reicher nói, “những gì chúng tôi phát hiện ra là chúng tôi không tham gia một cuộc tranh luận khoa học, điều mà chúng tôi cho rằng mình đã tham gia. Chúng tôi đang tham gia vào một cuộc cạnh tranh thương mại. Vào thời điểm đó, anh ấy rất muốn đưa bộ phim Hollywood ra mắt công chúng. “

Nỗ lực kéo dài hàng thập kỷ của Zimbardo để chuyển thể tác phẩm của mình thành phim cuối cùng đã thành công vào năm 2015 với ‘Thí nghiệm nhà tù Stanford’, mà anh ta làm cố vấn (trong phim nhân vật Zimbardo do Billy Crudup thủ vai). Mặc dù bộ phim có mục đích đưa ra quan điểm chỉ trích đối với cuộc thử nghiệm, nhưng nó thể hiện theo những cách thiết yếu đối với câu chuyện của Zimbardo, bỏ qua việc khuyến khích Zimbardo về các chiến thuật khó khăn trong định hướng cai ngục vào hôm thứ Bảy hoặc đề cập đến vai trò của David Jaffe. Bị bủa vây bởi những cai ngục ngược đãi, nhân vật dựa trên Korpi (Ezra Miller) không chịu nổi suy nghĩ rằng anh ta không tham gia vào một cuộc thử nghiệm nào cả mà đã bị đưa vào một nhà tù thực sự và, ở bước ngoặt cảm xúc của bộ phim, anh ta phải hét lên, dần sụp đổ. Dần dần ảo tưởng của anh ta bắt đầu tiêm nhiễm sang các tù nhân khác.

Bằng cách nào đó, cho đến nay, cả lá thư của Prescott cũng như việc thất bại trong việc tái thực hiện lại thí nghiệm hay nhiều bài phê bình học thuật đã làm giảm bớt sự bám chặt của câu chuyện về Zimbardo trong trí tưởng tượng của công chúng. Sức hấp dẫn của thí nghiệm trong nhà tù Stanford dường như đi sâu hơn vào giá trị khoa học của nó, có lẽ vì nó kể cho chúng ta một câu chuyện mà bản thân chúng ta vô cùng muốn tin: rằng chúng ta, với tư cách là cá nhân, không thể chịu trách nhiệm về những điều đáng trách mà thỉnh thoảng chúng ta làm. Giống như sự khó khăn trong việc chấp nhận cách nhìn sai lệch của Zimbardo về bản chất con người, nó cũng mang tính giải phóng sâu sắc. Điều đó có nghĩa là chúng ta đã rời vào cạm bẫy. Rằng hành động của chúng ta được xác định bởi hoàn cảnh. Khả năng thất bại của chúng ta phụ thuộc vào tình huống. Giống như Gospel đã hứa sẽ tha tội cho chúng ta chỉ cần chúng ta tin, SPE đã đưa ra một hình thức cứu chuộc được thiết kế riêng cho kỷ nguyên khoa học, và chúng ta đã chấp nhận nó.

Đối với các giáo sư tâm lý học, Thí nghiệm nhà tù Stanford là một phương pháp làm hài lòng đám đông đáng tin cậy, thường được thể hiện bằng rất nhiều đoạn phim sinh động tới dáng lo ngại. Các giảng đường nhập môn tâm lý học thường chật kín sinh viên từ các chuyên ngành khác, sự khẳng định phản trực giác rằng niềm tin của sinh viên vào sự tốt đẹp vốn có của họ là hoàn toàn sai lầm và cung cấp bằng chứng ấn tượng về khả năng của tâm lý học để dạy họ những điều mới mẻ và đáng ngạc nhiên về bản thân. Một số giáo sư giới thiệu về tâm lý học mà tôi đã nói chuyện qua cảm thấy nó giúp truyền dẫn suy nghĩ rằng những người làm điều xấu không nhất thiết là người xấu. Những người khác thì chỉ ra tầm quan trọng của việc dạy sinh viên trong nền văn hóa chủ nghĩa cá nhân khác thường của chúng ta rằng hành động của họ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các yếu tố bên ngoài.

Kenneth Carter, giáo sư tâm lý học tại Đại học Emory và đồng tác giả của cuốn sách Learn Psychology, cho biết: “Ngay cả nếu khoa học là thứ gì đó kỳ dị, hoặc có điều gì đó không ổn trong cách kết hợp chúng với nhau, tôi nghĩ vào cuối ngày, tôi vẫn muốn học sinh lưu ý rằng họ có thể thấy mình trong những tình huống quyền lực mà có thể ảnh hưởng đến cách cư xử của bản thân với tư cách một cá nhân. Đó là bức tranh lớn hơn cả nền khoa học ”.

Nhưng nếu công trình của Zimbardo phi khoa học sâu sắc như thế, thì làm sao chúng ta có thể tin tưởng vào những câu chuyện mà Zimbardo đã kể? Nhiều nghiên cứu khác, chẳng hạn như thử nghiệm nổi tiếng của Soloman Asch chứng minh rằng mọi người sẽ bỏ qua bằng chứng chính mắt nhìn thấy để tuân theo các phán đoán của nhóm về độ dài các dòng, minh họa ảnh hưởng sâu sắc của môi trường có thể gây ra đối với chúng ta. Thử nghiệm Milgram nghe có vẻ có phương pháp luận tốt hơn nhiều – nhưng vẫn còn gây tranh cãi – thí nghiệm Milgram chứng tỏ chúng ta có xu hướng tuân theo như thế nào trong một số môi trường nhất định. Điều độc đáo và hấp dẫn có một không hai, về câu chuyện của Zimbardo về Thử nghiệm nhà tù Stanford là gợi ý rằng tất cả những gì cần thiết để khiến chúng ta trở thành những bạo lực nhiệt tình là một bộ áo liền quần, dùi cui và chiếc đèn xanh để thống trị đồng loại của chúng ta.

Đọc về thử nghiệm của Soloman tại: https://bom.to/QCevFX

Le Texier giải thích: “Bạn sẽ cảm thấy chóng mặt khi nhìn vào nó. “Nó giống như kiểu,‘ Ôi trời ơi, bản thân tôi cũng có thể là một phần của Đức quốc xã. Tôi đã nghĩ mình là một chàng trai tốt, vậy mà giờ đây tôi phát hiện ra rằng mình có thể là một con quái vật.’ Và trong lúc này, tôi khá yên tâm, vì nếu tôi trở thành một con quái vật, không phải vì bản chất tôi xấu xa, mà là vì hoàn cảnh xô đẩy thế. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao thử nghiệm rất nổi tiếng ở Đức và Đông u. Bạn sẽ không cảm thấy tội lỗi. ‘Ồ, được rồi, hoàn cảnh xô đấy mả. Tất cả chúng ta đều là người tốt. Chẳng vấn đề gì cả. Đó chỉ là hoàn cảnh khiến chúng ta phải làm vậy thôi.” Vì vậy, điều đó sốc thật nhưng đồng thời cũng khiến chúng ta an tâm. Tôi nghĩ rằng hai thông điệp này của cuộc thử nghiệm đã khiến nó trở nên nổi tiếng ”.

Trong các cuộc khảo sát được thực hiện vào năm 2014 và 2015, Richard Griggs và Jared Bartels đều phát hiện ra rằng gần như mọi cuốn sách giáo khoa tâm lý học nhập môn trên thị trường đều có dẫn câu chuyện của Zimbardo về cuộc thử nghiệm, và hầu như không có tính kiểm chứng. Tò mò về lý do tại sao nó được chọn, thì tôi đoán có lẽ họ đã nắm rõ lịch sử đáng ngờ của thử nghiệm, những vẫn chọn đưa nó vào. Có ba người nói với tôi rằng ban đầu họ đã lược bỏ thử nghiệm nhà tù Stanford khỏi các ấn bản đầu tiên vì lo ngại về tính hợp pháp về mặt khoa học của nó. Nhưng ngay cả các giáo sư tâm lý học cũng không miễn nhiễm với các tác động ảnh hưởng từ xã hội: hai người thêm nó trở lại dưới áp lực từ các nhà phê bình và giáo viên, người thứ ba thêm vào vì nó được đưa báo đài đưa tin quá nhiều chỉ đứng sau Abu Ghraib. Các tác giả khác mà tôi đã nói chuyện bày tỏ quan điểm phê phán về thử nghiệm hơn nhiều so với những gì xuất hiện trong sách giáo khoa của họ, đồng thời cũng đưa ra một loạt lý do tại sao nó vẫn chứa giá trị sư phạm.

Greg Feist, đồng tác giả của cuốn ‘Tâm lý học: Quan điểm và sự Kết nối’, nói với tôi về quan điểm cá nhân của anh đối với thử nghiệm đã thay đổi vài năm sau khi xem Op-Ed 2005 của Carlo Prescott, thứ mà anh ấy mô tả là “gây sốc”.

“Thành thật mà nói, khi tôi phát hiện ra một số vấn đề về đạo đức và khoa học với nghiên cứu này, tôi không nghĩ rằng nó đáng để được tiếp tục kéo dài.

Nhưng trong lần xuất bản sách giáo khoa lần thứ ba của anh ấy vào 2014: một câu chuyện hết sức thông thường về câu chuyện đạt chuẩn mực tường thuật của Zimbardo, với những lời chỉ trích ngắn gọn chỉ xuất hiện ở phần cuối của chương.

Vào 25/10/1971, chỉ hai tháng sau khi kết thúc một cuộc thử nghiệm căng thẳng, đến mức sụt gần 5 cân trong tuần, Philip Zimbardo đã đến Washington D.C. theo yêu cầu của Ủy ban Tư pháp Hạ viện. Trong phòng điều trần, Zimbardo ngồi trước các nghị sĩ của tiểu ban 3 và nói với không ngượng mồm rằng: “những cai ngục” trong thí nghiệm gần đây của anh ta “chỉ đơn giản được chỉ là họ sẽ rơi vào một tình huống có thể nghiêm trọng và có lẽ có chút nguy hiểm… Họ đã tạo ra luật của riêng mình để duy trì luật pháp, trật tự và sự tôn trọng. ” Zimbardo mô tả một danh sách lạm dụng dài, gây ra “phản ứng sang chấn sâu sắc do hoàn cảnh” từ các tù nhân. Mặc dù chưa bao giờ đặt chân đến một nhà tù thực sự, nhưng anh ta đã khái quát một cách thoải mái từ các kết quả nghiên cứu chưa được đánh giá, chưa được công bố và phần lớn chưa được phân tích của mình: “Với tình trạng nhà tù ở đất nước chúng ta hiện tại, tôi đảm bảo nó sẽ tạo ra đủ các phản ứng bệnh lý nghiêm trọng cho cả cai ngục và tù nhân cũng như làm giảm nhân tính của họ, tạo ra cảm giác bị hạ thấp về giá trị bản thân và khiến họ khó có thể trở thành một phần của xã hội bên ngoài nhà tù”. Zimbardo đã thành công. Như Đại diện Hamilton Fish, Jr. của New York đã nói: “Anh chắc chắn đã giúp tôi rất nhiều trong việc làm rõ một số điều chúng tôi đã thấy trong nhiều ngày qua và giúp chúng tôi hiểu chúng.”

Sau cuộc nổi dậy ở nhà tù San Quentin và Attica, thông điệp của Zimbardo hoàn toàn phù hợp với những người theo tư tưởng yêu nước. Một lời chỉ trích về hệ thống tư pháp hình sự đã đổ lỗi cho việc các tù nhân và cai ngục đang ở trong “hoàn cảnh” được xác định một cách mơ hồ là phù hợp với hầu hết mọi chương trình nghị sự có lăng kính lý tưởng về các tệ nạn xã hội hàng ngày đối với tất cả mọi người. Những người theo chủ nghĩa tự do có tư tưởng cải cách, khao khát bằng chứng cho thấy việc những người phạm tội bị thúc đẩy làm như vậy là bởi môi trường mà họ sinh ra, điều này đã đưa ra lập luận của họ rằng để giảm tội phạm đô thị cần phải cải cách hệ thống – sự tiếp nối “cuộc chiến chống đói nghèo của Johnson ”- chứ không phải là“ cuộc chiến chống tội phạm ”mà Tổng thống Richard M. Nixon đã vận động. Frances Cullen, một trong những nhà tội phạm học xuất sắc của nửa thế kỷ trước, nhớ lại, “Khi tôi nghe nói về nghiên cứu, tôi chỉ nghĩ,“ well, thì tất nhiên đó là sự thật rồi. ”Tôi đã không phản biện lại. Mọi người đều thiếu óc phê bình. ” Trong lĩnh vực của Cullen, thực nghiệm nhà tù Stanford đã cung cấp bằng chứng hữu ích cho thấy hệ thống nhà tù về cơ bản đã bị phá vỡ. Ông nói: “Nó xác thực lại những gì mọi người tin, đó là, các nhà tù vốn là nơi vô nhân đạo.”

Động lực về chủng tộc của thực nghiệm nhà tù Stanford vốn chưa bao giờ được khám phá rõ ràng, và có lẽ đã khiến các nhà cải cách phải tạm ngưng tìm hiểu về nó. Carlo Prescott, người vừa phải chịu 16 năm tù vì là một người Mỹ gốc Phi, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình kiến trúc của cuộc thử nghiệm. Ông ta cảm thấy hơi thất vọng vì thiếu các đối tượng tham gia thử nghiệm là người da đen, anh ta liên tục can thiệp vào hành động này,như anh ta đã nói, “Tạo ra bầu không khí chân thực cho những cậu bé đang nhận 15 đô la mỗi ngày để đóng giả làm tù nhân – tất cả họ đều là người Da trắng. Một số điều thực sự khiến bạn bị sốc là vì sự tự do của bạn bị tước đoạt và bạn bị kiểm soát mỗi ngày bởi những người ghét bạn ngay cả trước khi bạn đến đó. ” Tuy nhiên, sự tính toán của Zimbardo về “hoàn cảnh” gây ra sự lạm dụng đã đi lệch quỹ đạo. Anh ta thường dùng từ “bình thường” để mô tả những người tham gia nghiên cứu của mình mặc dù thực tế rằng họ hầu như không phải là đại diện bình thường của tù nhân Hoa Kỳ vào thời điểm đó. Việc phân tích hành vi ngược đãi tù nhân Mỹ như là một sản phẩm của “các thế lực hoàn cảnh” như sự mù quáng về chủng tộc đã xóa bỏ nguồn gốc sâu xa của nó trong áp bức chủng tộc.

Tuy nhiên, thực nghiệm nhà tù Stanford đã tạo ra một ảnh hưởng đáng kể đến ngành tội phạm học Hoa Kỳ. Bài báo học thuật đầu tiên của Zimbardo về kết quả anh ta đạt được đã được xuất bản trên Tạp chí Tội phạm học và Bệnh học Quốc tế chứ không phải là một tạp chí tâm lý học. Một năm sau, Robert Martinson, một trong các nhà xã hội học được bang New York ủy nhiệm để đánh giá các chương trình nhà tù khác nhau, xuất hiện trên 60 Minutes với một thông điệp đen tối: khi nói đến việc cải tạo các tù nhân, Martinson nói, chẳng có gì ổn cả. Gần như chỉ sau một đêm, “học thuyết hư vô” của Martinson đã trở thành sự thông thái được chấp nhận rộng rãi ở Mỹ. Nó thường được coi là nguyên nhân dẫn đến tình trạng buông lơi diện rộng vào những năm 1970 bởi vì các học giả và các nhà hoạch định chính sách đều quan niệm rằng nhà tù nên được cải tạo. Cullen tin rằng nghiên cứu của Zimbardo cũng đóng một vai trò không kém quan trọng.

Cullen nói: “Những gì Thực nghiệm Nhà tù Stanford đã chứng minh là: nhà tù là không thể cải tạo. Điểm mấu chốt của nhiều cuộc cải cách nhà tù, đặc biệt là đối với các nhà tội phạm học, rằng nhà tù vốn dĩ là nơi vô nhân đạo, vì vậy chương trình nghị sự của chúng tôi phải giảm thiểu hóa việc sử dụng nhà tù, nhấn mạnh các lựa chọn thay thế cho nhà tù, ví dụ như sự cải tạo của cộng đồng ”.

Trong thời đại tội phạm gia tăng nhanh chóng, chương trình nghị sự này tỏ ra vô ích về mặt chính trị. Thay vào đó, các chính trị gia bảo thủ không ngần ngại sử dụng hình phạt bỏ tù không công bằng kéo dài hàng thập kỷ nhắm tới mục tiêu người Mỹ gốc Phi. Tỷ lệ giam giữ tăng đều đều, hiện cao gấp 5 lần so với các nước cùng cấp khác; Cứ ba người đàn ông da đen ở Mỹ thì sẽ có một người phải ngồi tù.

Tất nhiên, sẽ không công bằng nếu đổ hết lỗi lên Zimbardo. Chính xác hơn khi nói rằng, đối với tất cả những lý tưởng cải cách tù giam, thự nghiệm nhà tù Stanford đã góp phần tạo nên những xu hướng tư tưởng phân cực vào thời đó. Theo một cuộc khảo sát năm 2017 do Cullen cùng các đồng nghiệp là Teresa Kulig và Travis Pratt thực hiện, 95% trong số nhiều bài báo tội phạm các năm qua đã trích dẫn thực nghiệm nhà tù Stanford và chấp nhận thông điệp cơ bản của nó rằng nhà tù vốn là nơi vô nhân đạo.

Cullen nói: “Điều làm tôi ấn tượng sau này là tất cả chúng ta đều đánh mất sự hoài nghi về mặt khoa học của mình. Chúng tôi đã trở thành những ý thức hệ, theo cách của chúng tôi, cho tới khi có những người đứng lên phản đối. Các nghiên cứu của Zimbardo và Martinson có ý nghĩa trực quan đến mức không bước lùi lại và nói: “Chà, cái này có thể sai đấy nhỉ.”

Phần lớn các nhà tội phạm học ngày nay đều đồng ý rằng, tù nhân, trong thực tế không tuyệt vọng như những gì Zimbardo và Martinson đã tạo ra. Một số chương trình nhà tù có thể giúp các tù nhân cải thiện cuộc sống rất tốt. Mặc dù khó có thể so sánh ở tầm quốc tế, nhưng nhà tù Halden là nơi cực kỳ an ninh của Na Uy, nơi những kẻ sát nhân bị kết án khoác lên mình một quần áo bình thường, được đào tạo kỹ năng nghề nghiệp sâu rộng, chia sẻ bữa ăn với cai ngục không mang vũ trang và đi lang thang tùy ý vào ban ngày ngang qua phong cảnh tuyệt đẹp của những cây thông và bụi cây việt quất, những thứ là dấu hiệu mang lại đầy hy vọng. Tù nhân người Na Uy hiếm khi đánh nhau và có tỷ lệ tái phạm thấp hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Cullen lập luận, để bắt đầu cải thiện tệ nạn của việc giam giữ hàng loạt sẽ đòi hỏi phải nghiên cứu xem điều gì khiến hình thức quản lý nhà tù trở nên tốt hơn so với những hình thức khác, thay vì như thử nghiệm nhà tù Stanford đã làm, loại bỏ tất cả chúng.

Trong khi đó, di sản của Zimbardo vượt xa tầm ảnh hưởng của nó đối với hệ thống tư pháp hình sự vốn đang lao đao, tác động trực tiếp vào cách chúng ta hiểu về quyền tự do đạo đức cá nhân của mình.

***

Vào một buổi chiều tháng 8 năm 2006 đầy nắng, đỉnh điểm của Chiến tranh Iraq, một lính biệt kích Mỹ 19 tuổi tên Alex Blum đã chở một cấp cùng ba người khác đến một chi nhánh của Ngân hàng Hoa Kỳ ở Tacoma, đến nơi họ nhảy xuống xe và thực hiện một vụ cướp có vũ trang bằng súng lục và AK-47. Ba ngày sau, Alex, người tình cờ là anh họ của tôi, bị bắt tại quê hương Denver, Colorado. Alex tuyên bố với gia đình rằng anh ấy đã tham gia vào một bài huấn luyện. Sau chương trình huấn luyện kéo dài một tháng vừa trải qua, anh trở nên tuân theo cấp trên của mình một cách vô điều kiện. Đối với phiên điều trần của Alex, nhóm bào chữa của anh đã gọi một chuyên gia nổi tiếng để lập luận rằng việc anh ta tham gia vào vụ cướp không phải do ý chí tự chủ của anh ta mà là do “các thế lực hoàn cảnh” đầy quyền lực: Tiến sĩ Philip Zimbardo. Alex nhận được một bản án cực kỳ khoan hồng, còn giáo sư Zimbardo trở thành người hùng của gia đình ấy.

Vào tháng 10 năm 2010, Zimbardo đồng tổ chức một tập đặc biệt của Dr. Phil Show mang tên ‘Khi người tốt làm điều xấu’, sử dụng câu chuyện của Alex để truyền bá thông điệp của mình rằng hành động xấu xa là kết quả của hoàn cảnh đưa đẩy chứ không phải do tính cách và sự chọn lựa. Từ vị trí của tôi trong khán giả trường quay, tôi nghe Zimbardo mô tả các cai ngục hành hạ tù nhân mà không cần bất cứ lời thúc giục nào – “Tôi đã hạn chế các cai ngục không được sử dụng bất kỳ vũ lực thể chất nào, nhưng trực giác của họ biết cách sử dụng vũ lực bằng tâm lý,” Zimbardo nói. Tiếp theo, anh ta sử dụng các lý thuyết của mình để giải thích các vụ lạm dụng tại Abu Ghraib, rồi đưa ra các lập luận tương tự mà gần đây anh ta đã sử dụng để bảo vệ Ivan “Chip” Frederick. Khi giáo sư Phil hỏi ai trong khán phòng nghĩ rằng họ có thể cũng sẽ tra tấn những người bị giam giữ trong tình huống tương tự, mọi người trong gia đình tôi đều đứng lên, hầu như ai cũng làm vậy. Chúng tôi tự hào vì Alex được giúp đỡ và chúng tôi biết đây là bài học mà chúng tôi phải nhận lấy từ công trình của Zimbardo.

Vài năm sau, sau khi quyết định viết một cuốn sách về câu chuyện của Alex, tôi phát hiện ra bằng chứng cho thấy Alex đã không nói toàn bộ sự thật về sự dính dáng của mình. Khi tôi đối chất với Alex, anh ấy thú nhận rằng lựa chọn tham gia vào vụ cướp ngân hàng là tự chủ đích hơn anh đã từng nói trước đây. Việc chấp nhận trách nhiệm là bước ngoặt với anh ấy. Nó giải phóng anh khỏi suy nghĩ nạn nhân đau khổ mà anh ấy đã bị mắc kẹt trong nhiều năm. Cái cớ “những thế lực hoàn cảnh” của Zimbardo đã từng xuất hiện để cho anh họ tôi vin vào nhằm bất chấp tội ác nghiêm trọng của chính mình, nhưng chứng kiến sự trưởng thành của Alex cùng với sự suy xét sâu sắc hơn về mặt đạo đức, tôi bắt đầu tự hỏi liệu nó có thực sự là có lợi với anh ấy?

Chỉ sau khi phỏng vấn Zimbardo tại nhà riêng ở San Francisco cho cuốn sách của tôi về Alex, tôi mới bắt đầu nghiên cứu sâu hơn về lịch sử thí nghiệm nổi tiếng của anh ta. Càng tìm hiểu, tôi càng thấy bất an. Ngay sau khi cuốn sách của tôi được xuất bản và có vài cuộc nói chuyện với một số người tham gia trong nghiên cứu, tôi đã tiếp cận Zimbardo để có một cuộc phỏng vấn khác. Trong nhiều tháng, tôi không nhận được hồi âm. Sau đó cuốn sách của Le Texier được xuất bản, và Zimbardo đột nhiên đồng ý nói chuyện với tôi, dường như rất mong muốn được đáp trả các cáo buộc. Chúng tôi đã nói chuyện qua Skype ngay sau khi anh ta trở về từ một hội nghị tâm lý học. Văn phòng của anh ta chất đống sách và giấy tờ, còn điện thoại thì liên tục đổ chuông khi chúng tôi đang trò chuyện.

Sau khi nghe Zimbardo mô tả thí nghiệm rất nhiều lần trong nhiều năm, tôi không mong đợi sẽ được nghe bất cứ điều gì mới. Điều ngạc nhiên đầu tiên đến khi tôi hỏi về những tuyên bố của Korpi và Yacco với tôi rằng họ đã được thông báo rằng họ không thể rời đi. Sau khi phủ nhận họ lúc đầu là dối trá và sau đó tuyên bố rằng Korpi và Yacco đơn giản là đã quên cụm từ an toàn “Tôi từ bỏ thực nghiệm”, Zimbardo khiến tôi kinh ngạc khi thừa nhận rằng, thực tế anh ta đã hướng dẫn nhân viên của mình nói với các tù nhân rằng họ không thể ra ngoài.

“Nếu [tù nhân] nói,‘ Tôi muốn ra ngoài ’và bạn nói,‘ Được rồi, ’thì ngay sau khi họ rời đi, thí nghiệm sẽ kết thúc,” Zimbardo giải thích. “Tất cả các tù nhân sẽ nói,‘ Tôi muốn ra ngoài.’ Phải có lý do chính đáng để họ ra ngoài. Trong tâm trí của họ, tâm lý cần có phải là ‘Tôi là một tù nhân trong nhà tù’, chứ không phải ‘Tôi là một sinh viên đại học đang trong một cuộc thử nghiệm. Tôi không cần tiền nữa. Tôi đang bỏ thử nghiệm.’ Bạn không từ bỏ tù nhân. Đó là toàn bộ mục đích của nhà tù Pirandellian [Ed: Pirandello là một nhà viết kịch người Ý với những vở kịch pha trộn giữa hư cấu và hiện thực]. Ở một góc độ nào đó, bạn là sinh viên tham gia một thử nghiệm ở tầng hầm. Ở một góc độ khác, bạn là một tù nhân bị lạm dụng bởi cai ngục trong nhà tù. ”

Zimbardo xác nhận rằng David Jaffe đã nghĩ ra các luật lệ cho lính canh, nhưng cố gắng lập luận rằng anh ta không nói dối khi trình với Quốc hội (và, nhiều năm sau đó, nhấn mạnh với Lesley Stahl trong 1 tiếng đồng hồ) rằng các lính canh đã tự nghĩ ra các luật lệ này với lý do bản thân Zimbardo không có mặt tại thời điểm đó. Lúc đầu, anh ta phủ nhận rằng thử nghiệm không mang bất kỳ động cơ chính trị nào, nhưng sau khi tôi đọc cho anh ta nghe một đoạn trích từ một thông cáo báo chí rất phổ biến trong ngày thứ hai của cuộc thử nghiệm đã nói rõ rằng nó nhằm mục đích nâng cao nhận thức về nhu cầu cải cách, thì anh ta đã thừa nhận rằng có lẽ anh ấy đã tự viết nó dưới áp lực của Carlo Prescott, người mà anh ta đã cùng dạy trong một lớp học hè về tâm lý học trong tù.

“Trong suốt khóa học đó, tôi bắt đầu thấy rằng nhà tù là sự lãng phí thời gian, tiền bạc và mạng sống,” Zimbardo nói. “Đúng vậy, tôi là một nhà hoạt động xã hội, và việc cải tạo nhà tù là thứ gì đó luôn quan trọng với tôi. Nhưng đó không phải là lý do để thực hiện nghiên cứu này. “

Khi kết thúc cuộc trò chuyện dài và căng thẳng, tôi hỏi anh ta liệu anh ta có nghĩ cuốn sách của Le Texier sẽ thay đổi cách mọi người nhìn nhận về cuộc thử nghiệm hay không.

“Tôi không biết,” anh ta nói với vẻ mặt hơi chút mệt mỏi. “Theo một cách nào đó, tôi thực sự không quan tâm. Bây giờ đây, vấn đề lớn nhất là tôi không muốn lãng phí thời gian của mình nữa. Sau cuộc nói chuyện của tôi với anh, tôi sẽ không thực hiện bất kỳ cuộc phỏng vấn nào về thực nghiệm. Đây chỉ là sự phí phạm thời gian. Mọi người có thể nói bất cứ điều gì họ muốn. Đây là nghiên cứu nổi tiếng nhất trong lịch sử tâm lý học vào thời điểm này. Không có nghiên cứu nào mà mọi người nhắc tới 50 năm sau rồi những người bình thường cũng biết về nó. Họ hỏi, “Bạn làm nghề gì?” “Tôi là nhà tâm lý học.” Đó có thể là một tài xế taxi ở Budapest. Đó có thể là một chủ nhà hàng ở Ba Lan. Tôi đề cập đến việc tôi là một nhà tâm lý học và họ nói, “Bạn có từng nghe nói về nghiên cứu này không?”. Giờ nó đã có sự sống của chính mình. Nếu anh ta khẳng định tất cả chỉ là một trò bịp, điều đó tùy thuộc vào anh ta. Tôi sẽ không bảo vệ nó nữa. Khả năng phòng ngự giờ đây là sự trường tồn của nó”.

Zimbardo đã dành phần lớn thời gian trong năm mươi năm qua để trả lời các câu hỏi về sáu ngày đen tối nhất trong cuộc đời mình, bằng một cách nào đó, mà thử nghiệm của anh ta về tù nhân đã trở nên thành công rực rỡ. Khi tôi hỏi anh ta có vui không, khi nhìn lại và khi tiến hành nghiên cứu, anh ta nói rằng đó là những cảm xúc lẫn lộn. Anh ta coi phòng khám chữa bệnh nhút nhát do mình thành lập ở Palo Alto vào năm 1975 là công trình quan trọng nhất của bản thân.

Anh nói: “Nếu không phải nhờ đến nghiên cứu về tù giam, thì đó sẽ là di sản nổi tiếng nhất của tôi.

“Có phải một phần nào đó trong anh ước đó là di sản để đời của mình không?” Tôi hỏi.

“Phải, chắc chắn rồi,” anh ta nói, “tất nhiên. Vì đó là một thứ tích cực. Nghiên cứu trong tù, phần tiêu cực là Tôi là Tiến sĩ xấu xa. Tôi đã tạo ra tình cảnh xấu xa này, giống như Svengali hay gì đó ”.

Trong lời kể của Zimbardo, anh ta cũng là nạn nhân của hoàn cảnh – được định hình bởi môi trường xung quanh và giống như những người khác.

“Tôi dần dần, với sự thiếu ý thức, đã tự biến mình thành thống đốc trại giam,” anh nói. “Tại sao? Vì văn phòng của tôi có biển báo ‘Thống đốc trại giam.’ Văn phòng của David Jaffe ghi là “Quản lý.” Sau đó, tôi phải giải quyết mọi thứ với phụ huynh. Tôi đã phải đối phó với các phiên điều trần của hội đồng ân xá. Tôi đã phải đối phó với các vị linh mục. Mọi người đối xử với tôi không phải với tư cách là một nhà nghiên cứu mà với tư cách là thống đốc nhà tù, yêu cầu giúp đỡ con trai lỡ sa vòng lao lý của họ. “

Lời bào chữa này đã đi theo Zimbardo cũng như nhiều người khác trong suốt nhiều năm, nhưng nó có thể không còn đủ để bào chữa thêm nữa. Sau khi xem xét một số bằng chứng của Le Texier, tác giả sách giáo khoa Greg Feist nói với tôi rằng anh ấy đang cân nhắc để có lập trường vững chắc hơn trong ấn bản sắp tới của ‘Tâm lý học: Quan điểm và sự Kết nối’.

Feist nói: “Tôi hy vọng sẽ có lúc chúng ta biết mình cần phải làm gì, nơi câu chuyện của Zimbardo đã chết”. “Rất tiếc là điều đó sẽ không xảy ra sớm đâu, nhưng hy vọng nó sẽ xảy ra. Bởi vì tôi chỉ nghĩ rằng đó chỉ là một… ”

Feist tạm dừng để tìm từ thích hợp, sau đó đơn giản mà thốt ra rằng:

“…Là một lời nói dối.”

Theo: Khám Phá Thế Giới

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *