Chuyện kể rằng sau chiến thắng Chiêm Thành năm 1471, dân gian vùng Hóa Châu truyền cho nhau nghe câu ca:
“Hóa Châu thắng được Chiêm Thành
Không bằng thắng được mắt xanh cô nàng”
Nếu như chiến thắng Chiêm Thành được sử sách ghi lại rõ ràng thì “chiến thắng” thứ hai của Lê Thánh Tông trong tình yêu chỉ được nhắc đến ngắn gọn, sơ lược, còn dã sử cũng chỉ cho biết thêm đôi chút tình tiết thú vị. Người con gái xinh đẹp đất Hóa Châu đã khiến vị hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử phong kiến Việt Nam say đắm đó mang họ Nguyễn (không rõ tên), quê ở xã Hòa Thước (Thược), huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong (nay thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên –Huế). Điều lý thú đây mới chính là “chiến thắng” đầu tiên của Lê Thánh Tông trên đường Nam chinh.
Chuyện kể rằng khi Lê Thánh Tông chỉ huy đại quân phạt Chiêm, đến đất Thuận Hóa, ông truyền cho dừng lại đóng quân ở xã Hòa Thước để nghỉ ngơi, thao diễn quân sự trước khi bắt đầu cuộc chiến; một hôm đứng trên vọng lâu quân doanh, ông thấy có một cô gái gánh nước đi qua, tuy mặc bộ quần áo nâu lam lũ nhưng vẫn không dấu được khuôn mặt xinh đẹp, thân hình kiều diễm đầy vẻ hấp dẫn ở độ tuổi trăng tròn lộng lẫy.
Bỗng cảm thấy tâm hồn xao động, Lê Thánh Tông cho truyền gọi cô gái vào hỏi chuyện; trước hoàng đế uy nghi và các văn thần tướng võ đông đảo, cờ quạt rực rỡ, gươm giáo sáng lòa nhưng cô gái trẻ không hề e sợ mà vẫn giữ phong thái tự tin, ứng đáp linh hoạt thông minh; thậm chí cô còn ra một câu đối khiến tả hữu quanh vua, trong đó có người từng đỗ khoa bảng cao, không ai đối lại được: “Gái Hòa Thước gồng nước pha trà, chanh từng chén”.
Nghe xong Lê Thánh Tông rất thích thú, ông không ngờ rằng cô gái trẻ ở chốn quê mùa đó lại có tài văn thơ giỏi đến vậy vì thế càng say mê hơn, hoàng đế quyết định đón nàng theo đoàn quân, rồi sau chiến thắng thì ca khúc khải hoàn đưa về Thăng Long làm phi tần, dần dần cô gái ấy được phong đến bậc Quý Phi. Dân gian đời sau có câu ca nói về chuyện này như sau:
“Hỡi cô gánh nước bên đàng,
Làm sao cô để mơ màng quân vương”.
Sách Đại Việt thông sử cũng có đoạn cho biết về duyên kỳ ngộ giữa hai người như sau: “Bà là người xã Hòa Thược, huyện Kim Trà. Khi vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành dừng lại ở xã này, thấy bà gánh nước qua, có nhan sắc, vua đem lòng yêu bèn cho vào cung, được nhà vua quý mến. Lần lần phong đến bậc phi, về sau sinh ra Triệu Vương”. Lê Quý Đôn viết ai cũng rất kỹ, riêng với bà chỉ có vài dòng thế thôi.
Là người coi trọng pháp luật, nhận thấy vai trò quan trọng của pháp luật trong xây dựng bộ máy nhà nước, quản lý trật tự xã hội nên Lê Thánh Tông rất chú trọng hoạt động lập pháp và xây dựng điển chế, ông từng nói với triều thần rằng: “Pháp luật là phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi đều phải tuân theo, các ngươi nên nhớ lấy” và nhắc nhở quân dân cả nước: “Đặt luật để trừ kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp luật” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Ấy vậy mà có trường hợp phạm tội nhưng hoàng đế Lê Thánh Tông đã bỏ qua cho thủ phạm, đây có thể nói là một trong số những hạn chế hiếm hoi của ông và nguyên do cũng xuất phát từ tình yêu, sự quý trọng người thiếp họ Nguyễn quê ở Thuận Hóa.
Kể từ khi vào cung, qua thời gian chung sống, nhận được sự sủng ái của vua, Nguyễn Quý Phi đã sinh được mấy người con, trong số những người con do bà sinh hạ, chỉ có một con trai tên là Lê Thoan, đây là hoàng tử thứ 13 của Lê Thánh Tông, được vua phong cho tước Triệu Vương, một người khí khái và can đảm.
Câu chuyện về Triệu vương Lê Thoan, con trai của Nguyễn Quý Phi có liên quan đến mối tệ hại này. Sách Đại Việt thông sử cho hay: “Triệu Vương Thoan là con thứ 13 của vua Thánh Tông. Mẹ là người xã Hoà Thược, huyện Kim Trà. Vương từ nhỏ đã thông minh quả cảm.
Có người ở quê mẹ ông tới kinh làm việc, đi đến ngoài cửa Đại Hưng, một viên tiểu hoàng môn vừa đi đến thấy người ấy áo quần lam lũ, lại tranh đường, bèn hỏi rằng “Mày ở đâu?”. Người ấy đáp: “Ở Thuận Hoá”. Viên hoàng môn ấy mắng rằng: “Loại sâu bọ này lại dám vô lễ à?”. Lúc ấy Vương từ chỗ cửa cung cấm đi ra, nghe thấy thế, chợt nổi cơn giận, lấy gậy đánh chết viên ấy.
Rồi ông đi tắt vào tâu vua rằng: “Tôi là con thiên tử, mẹ tôi người Thuận Hoá. Viên tiểu hoàng môn nói phạm đến tôi, tôi không nén được cơn giận, trót đã giết mất nó rồi. Như thế là đã mắc tội tự tiện giết người, xin nạp tiền để đền mạng nó”. Nhà vua thương hại tấm lòng của ông, lại cho là có nghĩa khí, cuối cùng không bắt tội”.
Như vậy là Triệu vương Lê Thoan sau khi nghe câu nói coi thường người dân ở nơi khác, nhất là có thái độ khinh thường, hỗn xược nên trong một phút nóng giận ông đã phạm tội giết người. Điều ngạc nhiên là với với hành vi có tính chất đặc biệt nghiêm trọng đó, Lê Thánh Tông lại không bắt tội cho con trai, ngược lại ông cho rằng động cơ phạm tội của Triệu vương cũng có cái lý và một phần sâu xa khác, lời nói phạm đến dân Thuận Hóa cũng chính là phạm đến danh dự người thiếp yêu của ông.
Lại nói về Nguyễn Quý Phi, nếu như so với các phi tần khác của Lê Thánh Tông hầu hết là con cháu quan chức, được tuyển vào cung ít nhiều với mục đích chính trị, có sự sắp xếp mang lại lợi ích cho phe cánh, dòng họ thì cô gái đến từ Thuận Hóa chỉ là người xuất thân từ tầng lớp áo vải bình dân, ở vùng biên cương phía Nam xa xôi.
Cô gái đó trở thành cung phi, nhập cung không phải có ai đó có quyền thế nâng đỡ, cũng không phải qua kỳ tuyển chọn mỹ nữ mà qua sự tình cờ “như duyên trời định trước”; đó chính là điểm đặc biệt duy nhất khiến bà trở thành người đặc biệt nhất trong số những bà thiếp của ông vua Thánh – người được ví như:
“Mặt trời soi tỏ giữa tầng không
Sự nghiệp minh quân tiếng lẫy lừng”.
Theo SBĐ /. Tìm hiểu Lịch sử Việt Nam
