Vào tối ngày 11 tháng 8 năm 1941, tiếng ầm ầm của hàng chục động cơ mạnh mẽ vang lên trên sân bay Pushkino, gần Leningrad khi 14 máy bay ném bom khổng lồ cất cánh. Nhiệm vụ của họ, được xác định bởi Josef Stalin, là tấn công vào thủ đô của Đế chế thứ ba, Berlin.
*****
Ngay từ ngày 7 tháng 8 năm 1941, các máy bay ném bom hai động cơ của hạm đội Baltic đã tấn công vào thủ đô của Đức. Những cuộc tấn công đó, dù gây thiệt hại không đáng kể, nhưng có tác dụng tâm lý, một cử chỉ tượng trưng.
Tuy nhiên, bây giờ, Stalin đang nhắm đến một thứ gì đó không chỉ là một cử chỉ tượng trưng. Ông tập hợp nhiều máy bay, trong đó có 14 máy bay ném bom bốn động cơ Petlyakov Pe-8 trang bị động cơ diesel để tăng tầm bay, và phái chúng đi ném bom Berlin với khối lượng bom khá lớn.
Pe-8 tiêu chuẩn, còn gọi là TB-7, được thiết kế vào năm 1934 và sửa đổi vào năm 1940, có tốc độ tối đa 425kmh ở trần bay 6.360m. Trần bay cao tối đa là 10.300m với động cơ AM-35A. Ở tốc độ hành trình 280km, với dung tích nhiên liệu đầy đủ 12.989 lít chứa trong các bình ở thân máy bay và trên hai cánh, Pe-8 có tầm hoạt động tối đa là 4.700km với khối lượng bom mang theo là 2000 kg.
Pe-8 có sải cánh 39,13 m, chiều dài thân 23,2 m và cao 6,20 m. Trọng lượng bom tối đa của Pe-8 đối với các nhiệm vụ tầm ngắn là 4.000kg. Phi hành đoàn gồm 11 người. Máy bay này được cho là ngang tầm với Lancaster của Anh hay B-17 của Mỹ.
Cũng cần nói thêm là động cơ diesel ACh-30B đã được lắp thử cho máy bay Pe-8 từ năm 1940. Tốc độ và hiệu suất của động cơ này ở trần bay cao tỏ ra thua kém, nhưng tầm bay của máy bay lên tới 7.750km. Điều đó đã gây ấn tượng với Stalin, ông ra lệnh đưa các động cơ này vào sản xuất đại trà.
Tuy nhiên, lại có thêm những vấn đề phát sinh. Lưu lượng nhiên liệu cho mỗi động cơ phải được điều chỉnh bằng tay bởi phi công. Ngoài ra, số vòng quay trên mỗi phút (rpm) của động cơ ACh-30B đôi khi dao động dữ dội, sau đó động cơ thường dừng lại, đặc biệt là ở độ cao lớn.
Trong khi các kỹ thuật viên khắc phục các sự cố động cơ thì Thiếu tướng Mikhail Vassilievich Vodopyanov, Anh hùng Liên Xô người chỉ huy cuộc đột kích, đã lên kế hoạch bay. Ông dự định bay vòng bờ biển Estonia và Latvia, sau đó băng qua biển Baltic và bay vào đất liền ở phía bắc Stettin, với hy vọng tránh được sự can thiệp của Luftwaffe.
Tổng khoảng cách tới thủ đô của địch theo tính toán là 2.688km, tốc độ hành trình tầm xa là 280km và bay ở độ cao 7.000m. Nếu họ cất cánh lúc nhá nhem tối thì dự kiến sẽ đến Berlin khoảng nửa đêm.
Cuối cùng, lúc 9:15 tối, muộn hơn dự định ban đầu, 14 chiếc Pe-8 đã bay lên trời. Mọi thứ bắt đầu trở nên sai lầm đối với Pe-8 gần như ngay từ đầu.
Ngay khi máy bay của Thiếu tá Konstantin P. Yegorov, cất cánh, hai động cơ bị tắt cùng một phía, khiến nó rơi xuống đất và giết chết tất cả 11 người trong phi hành đoàn. Khi các máy bay tiến về phía Baltic, một chiếc đã bị tấn công bởi máy bay chiến đấu Polikarpov I-16, sau đó hỏa lực phòng không Liên Xô đã ném nó xuống biển ngoài khơi thủ đô Tallinn.
Trung úy Vasily D. Bidny chỉ cách Pushkino 40 phút khi động cơ phía trong bên phải của anh bốc cháy. Anh ta dập tắt ngọn lửa bằng cách tắt động cơ, nhưng khi bay qua Danzig (Gdansk) ở độ cao 6.000m, động cơ phía ngoài bên trái đã hỏng. Lúc đó, Bidny đã quyết định tấn công mục tiêu phụ là Stettin.
Sau khi thả bom xuống ga xe lửa Lauenburg, Bidny đã đưa được máy bay của mình về gần Leningrad một cách an toàn, ngay khi nhiên liệu vừa hết.
11 chiếc Pe-8 còn lại đã tiến về phía Berlin và đã thành công trong việc ném bom các khu vực khác nhau của thành phố. Vodopyanov và Pusep không gặp khó khăn gì cho đến khi họ chỉ cách Berlin 12 phút. Sau đó, ở độ cao 7.000m, một trong những động cơ của họ bắt đầu yếu dần. Vodopyanov dứt khoát giữ máy bay đúng hành trình trong khi súng phòng không Đức khai hỏa. Họ đã tiếp cận mục tiêu và Vodopyanov đã thả 4.000kg bom vừa khi mảnh đạn phòng không xé thân máy bay và đâm thủng thùng nhiên liệu ở cánh phải.
Chỉ còn khoảng bốn giờ nhiên liệu cho chuyến bay năm giờ nên Vodopyanov bay thẳng trở về chứ không bay theo đường bay vòng ban đầu.
Những rắc rối tiếp tục bám theo Vodopyanov. Khi bay qua một vùng áp thấp, băng bắt đầu hình thành trong máy bay. Tuyết xoáy qua khu vực buồng lái bị mảnh đạn và bao phủ các bảng điều khiển. Khi anh thoát khỏi thời tiết xấu, Vodopyanov thấy mình xuống tới 2.000m. Ngay lúc đó cả bốn động cơ dừng lại. Máy bay rơi xuống trong một khu rừng, gần mặt trận, nhưng Vodopyanov và phi hành đoàn đã thoát ra một cách kỳ diệu và tìm đường đến nơi an toàn bên phía Liên Xô.
Chỉ có bốn phi hành đoàn Pe-8 khác có thể thực hiện chuyến đi khứ hồi mà không gặp sự cố khi họ đến Pushkino vào sáng ngày 12 tháng 8 và tất cả các phi công đều phàn nàn về vấn đề động cơ.
Hai chiếc máy bay khác xuất hiện sau đó trong ngày. Thiếu tá Mikhail M. Ugryumov hết nhiên liệu nhưng hạ cánh gần một nhà máy máy kéo bên ngoài Kalinin, nơi anh tiếp nhiên liệu cho máy bay của mình và sau đó tiếp tục chuyến bay về nhà. Các động cơ chính của Alexanderr A. Kurban, đã bị tắt nhiều lần, buộc anh ta phải khởi động lại chúng bằng cách chúi xuống thâp, mỗi lần như vậy là mất một số nhiên liệu quý giá. Đến Krasnoye Selo thì vừa hết nhiên liệu nhưng máy bay đã hạ cánh mà không bị hư hại, tiếp nhiên liệu và cuối cùng đã đến được Pushkino.
Ba chiếc Pe-8 khác đã kém may mắn hơn khi hạ cánh khẩn cấp xuống quá xa căn cứ của chúng. Một chiếc được liệt kê là mất tích cho đến khi được biết rằng phi công của nó, Trung úy Alexander I. Panfilov, đã mất phương hướng trong chuyến bay trở về, bay lạc qua Phần Lan và bị bắn hạ gần Helsinki bởi hỏa lực phòng không của địch. Chỉ có hai người sống sót sau vụ tai nạn và bị người Phần Lan bắt làm tù binh.
Khi trở về, Vodopyanov ngay lập tức được đưa đến Moscow. Ông được dẫn vào Điện Kremlin vào ngày hôm sau để gặp một Stalin mặt mày nhăn nhó và các quan chức của Đảng, các nguyên soái và tướng lĩnh đang ngồi đầy cả phòng. Vodopyanov báo cáo kết quả cuộc đột kích: “Mười một trong số các máy bay của chúng tôi đã đến được mục tiêu, sáu máy bay đã trở về căn cứ, một bị pháo phòng không của ta bắn rơi, một chiếc bị mất tích và phần còn lại đã buộc phải hạ cánh do hỏng động cơ. Máy bay của tôi bị rơi xuống một khu rừng”.
Sau đó, Vodopyanov mất bình tĩnh và thốt lên: “Động cơ phải đáng tin cậy để bay trong chiến đấu, bay với những động cơ này có nghĩa là mất máy bay và mất người”.
Nhận xét đó mang tính khinh thường một quyết định của chính Stalin, nhưng nhà lãnh đạo Nga im lặng lắng nghe khi Vodopyanov nói thêm, “Một điều nữa, chúng ta phải có đèn báo hiệu, vì không có chúng, chúng ta bay lang thang như những chú mèo mù”.
“Anh muốn chúng tôi làm gì”, một trong những sĩ quan cấp trên hỏi anh “hướng dẫn máy bay phát xít bay thẳng đến sân bay của anh?”
“Chắc chắn và rõ ràng là những đèn hiệu như vậy sẽ được đặt cách xa sân bay”, Vodopyanov đáp lại. “Chúng tôi không gặp nhiều khó khăn trong việc bay 50 đến 100 km cuối cùng từ đèn hiệu đến căn cứ của chúng tôi!”
Khi đó, Stalin đã lên tiếng, chấm dứt cuộc tranh cãi và cho Vodopyanov ra. Ngay sau đó, Đại tá Aleksandr E. Golovanov thay thế Vodopyanov chỉ huy đơn vị. Tuy nhiên, một tuần sau, Vodopyanov được chỉ định hỗ trợ thử nghiệm Pe-8 với động cơ xuyên tâm Shvetsov M-82 thay cho động cơ diesel Charomsky. Không lâu sau đó, một loại đèn hiệu có tên là Pchelka (con ong nhỏ) đã được lắp đặt tại các căn cứ không quân của V-VS.
Trong khi đó, các cuộc tấn công Berlin về đêm vẫn tiếp tục. Golovanov đã cho rằng các máy bay Pe-8 không phù hợp với nhiệm vụ, nhưng ông ta đã chỉ huy ba chiếc tham gia một cuộc đột kích ít tham vọng hơn vào Königsberg vào đêm ngày 1 tháng 9, và đã thành công.
Sau tháng 9 năm 1941, do phòng tuyến mặt trận dịch chuyển, Liên Xô không còn khả năng duy trì chiến dịch ném bom tầm xa.
Số lượng lớn kim loại và công sức lao động đầu tư vào chương trình Pe-8 đã trở thành một thứ xa xỉ mà Stalin cảm thấy vượt quá khả năng của Liên Xô. Vào tháng 10 năm 1941, máy móc bắt đầu được chuyển từ Moscow về Povolozhe để chế tạo máy bay ném bom chiến thuật hai động cơ Pe-2.
Sự kết thúc của cuộc chiến ở châu Âu vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, đã để lại cho Liên Xô một sức mạnh trên bộ đáng gờm nhất trên trái đất, nhưng với một lực lượng không quân chiến lược yếu một cách vô vọng không thể sánh được với đối thủ sắp tới của nó, Không quân Hoa Kỳ.
