Mao Trạch Đông

Bành Chân, sinh năm 1902, là người Sơn Tây, gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1923 và là một trong những người sáng lập Đảng bộ tỉnh Sơn Tây. Bành Chân là Bí thư Bắc Kinh từ tháng 12/1948. Bành Chân là một trong “bát đại nguyên lão” của Đảng CSTQ (sáng lập viên của đảng bộ Sơn Tây), lập công lớn trong chiến dịch giải phóng Bắc Kinh lúc 46 tuổi. Ông được cử kiêm nhiệm chức Thị trưởng sau khi Thị trưởng Nhiếp Vinh Trăn được cử đi làm công tác khác. Bành Chân làm Thị trưởng suốt từ tháng 2/1951 đến tháng 5/1966 thì bị “Đại cách mạng văn hóa” hạ bệ vì chỉ trích chính sách của Mao Trạch Đông.

Chuyện có mầm mống từ tháng 11/1965, lúc Giang Thanh gặp Bí thư thứ nhất Thành ủy Thượng Hải là Kha Khánh Thi tổ chức phê phán vở “Hải Thụy bãi quan” của Ngô Hàm (nhà sử học và cũng là Phó Thị trưởng Bắc Kinh): Ít lâu sau Kha Khánh Thi chết, Giang Thanh đích thân xuất tướng, lấy Trương Xuân Kiều (nguyên là ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc một trong bốn người thuộc tứ nhân bang một thời gian dài làm bất ổn tình hình kinh tế, chính trị Trung Quốc) làm quân sư, Diêu Văn Nguyên (một nhà phê bình văn học và là một nhà chính trị, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc., một thành viên trong nhóm Tứ nhân bang trong thời kỳ Cách mạng văn hóa) làm “cây bút trứ danh”, thực hiện “ba kết hợp” bí mật soạn thảo. Bọn chúng trên thì giấu Cục Tuyên truyền và Bộ Chính trị, dưới thì giấu Thành ủy Thượng Hải và Cục Hoa Đông” để thảo “một bài văn tràng giang đại hải bình luận về vở kịch lịch sử đó (Tôn Hồng Quân và Lương Tú Hà, Bốn người vợ của Mao Trạch Đông, sđd Kỳ 1, tr. 169-170).

Mao đích thân xem kỹ để “sửa đến ba lần”, rồi sai đăng trên tờ Văn Hối ở Thượng Hải khoảng đầu tháng 11/1965 và chỉ thị Giang Thanh đưa in bài ấy thành sách nhỏ. Cuối tháng 11/1965 in xong, điện khẩn yêu cầu các cơ quan văn hóa và phát hành sách trên toàn quốc phải đặt mua. Các nơi đều chấp hành. Riêng Bắc Kinh không muốn phổ biến bài trên của Diêu Văn Nguyên. Thị trưởng Bành Chân nói đại ý phải để xem chân lý thuộc về ai đã, chứ trước mắt qua nhiều lần họp các ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị chẳng có ai nói phải phê phán vở “Hải Thụy bãi quan” cả.

Bành Chân đến gặp Đặng Tiểu Bình hỏi ý kiến, Đặng trả lời: Tôi đã xem vở kịch đó rồi, chẳng có sai phạm gì hết. Có một số kẻ muốn đạp trên lưng người khác để ngoi lên. Tôi chúa ghét hạng người ấy” (Nhiếp Nguyệt Nham, sđd Kỳ 28, tr. 289). Hay tin Bành Chân chống lệnh, Bắc Kinh không mua sách, Mao ra mặt, bảo Chu Ân Lai trực tiếp truyền đạt chỉ thị của mình buộc Bành Chân phải họp hội nghị công tác tuyên truyền để thông báo đến tất cả cơ quan báo chí ở Bắc Kinh phải đăng lại bài của Diêu Văn Nguyên. Tình thế bắt Bành Chân phải nghe theo, song ông nhấn mạnh với mọi người đây chỉ là “thảo luận học thuật”, chưa phải “kết luận”.

Mao bực lắm, nhưng lúc đó đang cần “chính khách có trọng lượng” như Bành Chân tham gia Đại cách mạng văn hóa nên chưa khiển trách vội. Đợi đến ngày sinh nhật thứ 72 của mình vào 26/12/1965, Mao mời Bành Chân đến dự và đặt Bành ngồi đối diện mình ngay bàn tiệc chính. Gọi Trương Xuân Kiều đến bên, Mao giới thiệu Trương là “tú tài đỏ”, là “nhà lý luận sâu sắc” đã cùng Diêu Văn Nguyên tổ chức viết bài phê phán Ngô Hàm. Bành Chân nâng cốc chúc thọ, Mao uống cạn, rồi nói – ẩn ý răn đe: Đồng chí Bành Chân, tôi cũng kính ông một cốc, hy vọng ông học tập các đồng chí Thượng Hải (như Trương và Diêu), đưa cuộc đấu tranh phê phán ”Hải Thụy bãi quan” vào chiều sâu, đây là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong lĩnh vực ý thức hệ, mong ông vượt qua cửa ải này.

Tiệc tàn, vài tháng sau Mao lên tiếng chỉ trích gay gắt Thành ủy Bắc Kinh (ám chỉ Bành Chân) đã kết hợp với Ban tuyên truyền trung ương (ám chỉ Lục Định Nhất) cùng bao che kẻ xấu (Ngô Hàm). Mao bảo: Bắc Kinh ngoan cố kín cửa đến nổi một mũi kim “đưa tới không lọt”, một hạt mưa “rót cũng không vào”. Còn Ban tuyên truyền trung ương là Điện Diêm vương, phải “đánh đổ Điện Diêm vương, giải phóng tiểu quỷ”.

Đến đầu tháng 5/1966, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng phê phán “tư tưởng tư sản phản động trong giới học thuật, giáo dục, báo chí, văn nghệ, xuất bản” và nêu nhiệm vụ “giành lại quyền lãnh đạo trong lĩnh vực văn hóa” chủ yếu nhằm vào Bành Chân, Lục Định Nhất (Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc). Mao truyền đạt ý mình, quy kết: Ngô Hàm là học phiệt đang được “đại đảng phiệt” Bành Chân và Lục Định Nhất dung chứa. Tân Tử Lăng nhận định: Mao nắm quyền phát ngôn, tiếng nói có sức nặng ghê gớm, đó là chỗ lợi hại của kẻ độc tài. Được thế công khai, Giang Thanh đạo diễn lôi hơn 300 cán bộ trong đó có Bành Chân, Lục Định Nhất ra trước 30 vạn người để hồng vệ binh đấu tố tại Đại học Thanh Hoa đầu năm 1967.

Sang tháng 3/1968, Bộ trưởng Công an Tạ Phú Trị ra lệnh bắt giam giáo sư Ngô Hàm về tội “phản bội – cần được xử lý trong nội bộ nhân dân” hình thành vụ án “ngục văn tự” không cần xét xử. Đến 11/10/1968, sau nửa năm bị đánh đập tra khảo, Ngô Hàm chết thảm trong tù. Lúc đó Đặng Tiểu Bình cũng đã bị kết tội và buộc phải cùng vợ rời khỏi Trung Nam Hải, đày đi lao động tại Giang Tây, không được đem theo một người con nào hết. Đến giai đoạn Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền (1979) đã đích thân chỉ thị để Ban tổ chức Thành ủy Bắc Kinh hủy bỏ kết luận trước kia của ban chuyên án về Ngô Hàm, khôi phục danh dự cho nhà sử học, đồng thời phục hồi sinh hoạt của nguyên lão Bành Chân.

Sau khi được giải oan, Bành Chân được cử làm Phó chủ tịch Quốc hội khóa 5 (tháng 7/1979) và đến tháng 6/1983, ông được cử làm Chủ tịch Quốc hội. Ngày 26/4/1997, ông qua đời tại Bắc Kinh, thọ 95 tuổi.

Link: https://1thegioi.vn/ky-32-bi-thu-thanh-uy-bac-kinh-chong-mao-trach-dong-35290.html

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *