NHẬT KÝ NỮ PHÁP Y – KỲ ÁN VỨT XÁC TRÊN XE LỬA: P4/4

16.

Chiều ngày 8 tháng 7 năm 2002. Mưa rào.

Thị trấn Cổ Bảo huyện Lương Sơn tỉnh Tùng Giang, trong nhà Phí Nghị Lâm.

Tôi và Thẩm Thư đã khởi hành từ sáng sớm, lái xe hơn 300km, sau khi đến thị trấn Cổ Bảo, được đồn trưởng đồn cảnh sát địa phương Trương Kì Chí dẫn đến nhà của Phí Nghị Lâm.

Thị trấn Cổ Bảo là một nơi nghèo tài nguyên, giao thông bất tiện, một thị trấn lâu đời và bảo thủ, đem so với những thị trấn cùng cấp khác, phát triển kinh tế gần như lạc hậu hơn cả chục năm. Nhà của Phí Nghị Lâm là một căn nhà mái bằng thấp, gạch xanh ngói đỏ loang lổ được khắc màu tàn tích của gió mưa. Lớp sơn xanh lá trên bề mặt cửa sổ rụng thành từng mảng, trong sân vườn mọc đầy cỏ dại.

Mở cửa bước vào, không gian trong phòng càng thêm bí bách. Ánh sáng trong phòng không được tốt, trong cái mờ mịt hình như còn phảng phất một làn khói bụi. Mùi ẩm thấp mốc meo ập thẳng vào mũi, khiến người ta cảm thấy ngột ngạt choáng váng. Hai ông bà già tuổi đã qua thất thập đang ngồi trong gian bếp để nhóm lửa thổi cơm, trông thấy chúng tôi bước vào liền đứng dậy, trong biểu cảm hiền khô còn mang theo cả sự kinh ngạc.

Trương Kì Chí trước đây đã có hai lần đến nhà Phí Nghị Lâm, cũng đã gặp qua bố mẹ của ông ta, bước lên trước chào hỏi: “Chào hai cụ, hai cụ có khỏe không ạ? Có hai cảnh sát đến từ Sở Nguyên, muốn được gặp Nghị Lâm.” Bà cụ bĩu môi, đáp: “Mấy năm nay rồi có ai đến thăm nó đâu. Sao? Nó đã thế này rồi, các cô cậu vẫn còn muốn nghe nó kể chuyện à?” Không hổ là mẹ của Phí Nghị Lâm, vừa nghe đến thân phận của chúng tôi là đã đoán ra được mục đích đến. Thẩm Thư có chút khó xử, há mồm, nhưng lại không thốt nên lời. Cuộc sống khó khăn của Phí Nghị Lâm vừa nhìn là thấy, việc mà Thẩm Thư đến nhờ ông ấy làm cũng là tình hình thực tế, nói gì cũng là cả vú lấp miệng em.

Tôi vội xoa dịu tình hình: “Đúng là chúng cháu có việc cần nhờ lão Phí giúp, nhất định sẽ không để bác ấy làm không công đâu ạ, Sở Cảnh sát sẽ trả thù lao. Cụ à, chúng cháu đến vội quá nên chưa kịp chuẩn bị quà cáp gì, cháu có chút móng heo và lạp xưởng là đặc sản của Sở Nguyên, mong hai cụ nhận cho.” Nói xong, tôi đặt móng heo và lạp xưởng mua ở Sở Nguyên lên mặt bếp. Cụ ông không ngẩng đầu, ồm ồm nói: “Đến thì đến, lại còn bày vẽ. Bà cũng thật là, nói mấy lời vô vị đó làm gì? Nghị Lâm đang trong phòng đấy, các cô cậu vào đi.”

Tình trạng của Phí Nghị Lâm tệ hơn những gì mà chúng tôi tưởng tượng. Ông ấy mới hơn 40 tuổi, nhưng tóc đã bạc trắng, bù xù xõa xuống vai. Râu dài một gang, kéo dài xuống tận ngực. Ông ấy ôm một chiếc chăn bẩn thỉu, ngồi cuộn tròn trên chiếc ghế mây, vừa gặm bánh nướng áp chảo, vừa chăm chú xem ti-vi, không hề để ý đến sự xuất hiện của chúng tôi.

Trên ti-vi đang chiếu phim hoạt hình “Conan”. Tôi đã xem bộ phim này tận hai lần từ đầu đến cuối, nhìn lướt qua một cái, đang chiếu đến khoảnh khắc quan trọng của hai nghi phạm thật giả lẫn lộn, liền buột miệng nói ra tên của hung thủ thực sự. Phí Nghị Lâm liếc mắt nhìn tôi, ánh mắt lộ ra vẻ bán tín bán nghi. Chốc lát, hung thủ thực sự lộ diện, Phí Nghị Lâm kích động đứng bật dậy khỏi chiếc ghế mây, chỉ tay về phía tôi, cười khà khà.

Cảm xúc hưng phấn của tôi không kém gì Phí Nghị Lâm. Tôi vừa được tận mắt chứng kiến tuyệt kỹ đọc môi thần kỳ của ông ấy. Đương nhiên, tiền đề là tai ông ta quả thực đã bị điếc, hoàn toàn dựa vào mắt để “nghe”.

Chúng tôi đã làm vài thực nghiệm, đứng sau lưng ông ta hét lớn, hoặc chỉnh tiếng chuông điện thoại lên mức lớn nhất rồi phát ra, ông ta đều chẳng chút ngó ngàng. Chỉ khi đứng trước mặt nói chuyện, ông ta mới thờ ơ liếc nhìn bạn một cái, nhưng có vẻ toàn bộ những ý mà chúng tôi diễn đạt ông ta đều hiểu.

Bà cụ thấy chúng tôi làm vậy có vẻ bất mãn, đứng trước cửa nói: “Được rồi, nó bị điếc mười năm nay, không nghe thấy gì đâu, các cô cậu không phải thử nữa.”

Thẩm Thư vẫn có chút không yên tâm, sợ Phí Nghị Lâm “nghe” được nhưng không diễn đạt được, cậu ta bắt tôi đứng cách xa 2m, không được phát ra tiếng, chỉ được mấp máy môi, nói ba chữ “Phí Nghị Lâm”, sau đó để ông ta nhắc lại. Nhưng Phí Nghị Lâm mặc kệ, ngơ ngác nhìn Thẩm Thư, không quan tâm đến cậu ta, rồi lại quay sang xem ti-vi.

Thẩm Thư dùng ánh mắt để tỏ ý xin lỗi với bà cụ, sau đó lấy ra một miếng bánh nướng giòn thơm đã chuẩn bị từ trước, bỏ vào tay Phí Nghị Lâm rồi ra hiệu cho ông ấy nhắc lại lời tôi vừa nói. Phí Nghị Lâm cắn một miếng to, cười khà khà, vừa nhai vừa đọc tên mình một cách mơ hồ nghe chẳng rõ. Tôi nhân thể lại mấp máy môi lần nữa, đọc không thành tiếng một bài hát thiếu nhi dễ hiểu, Phí Nghị Lâm lần này không cần khuyên bảo, đọc lại không thiếu một chữ. Tôi không biết tại sao một suy nghĩ lại nảy lên trong lòng, lại đọc không thành tiếng một bài thơ cổ trúc trắc, tin là với trí tuệ của Phí Nghị Lâm, nhất định sẽ không hiểu tôi đang nói gì.

Dễ nhận thấy lần này Thẩm Thư có chút căng thẳng, chăm chú nhìn vào phản ứng của Phí Nghị Lâm, lo ông ấy sẽ không nói ra được. Ai mà biết, Phí Nghị Lâm ngơ ngác nhìn tôi độ hai giây, không ngờ lại có thể đọc lại từng câu từng chữ, trừ một số chỗ phát âm không chuẩn thì gần như không sai một từ. Ông ấy không những đọc được ngôn ngữ môi, mà trí nhớ còn khiến người khác phải kinh ngạc.

Thật tuyệt vời! Hai mắt tôi đỏ rực vì kích động. Bao nhiêu ngày tìm kiếm, chịu đựng sự chỉ trích và trách móc, khổ sở kiên trì dưới đủ mọi áp lực, vào khoảnh khắc này, mọi thứ đều xứng đáng.

Trương Kì Chí cũng tấm tắc khen ngợi: “Lão Phí, sao tôi không biết ông có biệt tài này nhỉ? Thật là một khả năng tuyệt vời.”

Thuyết phục mãi mới được bố mẹ của Phí Nghị Lâm đồng ý, chúng tôi dẫn ông ấy rời khỏi nhà. Đằng sau truyền tới lời than phiền của hai ông bà già: “Lúc dùng đến thì lôi con người ta đi, còn không dùng đến thì lại trả cho hai thân già này một người tàn tật.” Câu nói ấy như một chiếc bàn là nóng rực, khiến hai má tôi đỏ bừng lên vì bỏng.

17.

Đêm ngày 8 tháng 7 năm 2002. Trời quang.

Phòng Kỹ thuật điều tra Sở Cảnh sát thành phố.

Khi trở về Sở Nguyên thì trời đã tối, chúng tôi ăn uống đơn giản rồi cắm đầu vào phòng làm việc của Phòng Kỹ thuật điều tra, trích xuất đoạn ghi hình lúc tài xế ta-xi nói chuyện với Miêu Diểu, lòng đầy hy vọng rằng Phí Nghị Lâm sẽ chứng minh cho chúng tôi một kỳ tích.

Ai mà biết được ông ấy xem xong lại không có phản ứng gì, ánh mắt lơ đãng, ra sức để nhai món điểm tâm Tiramisu, không hé nửa lời. Tôi và Thẩm Thư quay ra nhìn nhau, thế là thế nào? Chả nhẽ ông ấy chỉ bận ăn, không “nghe” thấy tài xế ta-xi nói gì? Chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi ông ấy ăn hết miếng bánh Tiramisu, dỗ ngon dỗ ngọt ông ấy, mời ông ấy kể lại cho chúng tôi những gì mà tài xế ta-xi đã nói. Phí Nghị Lâm trợn tròn cặp mắt thăng trầm, vừa sáng suốt lại lờ đờ, ngoan ngoãn gật đầu.

Chúng tôi phát lại đoạn băng một lần. Lần này Phí Nghị Lâm không ăn, chăm chú dán mắt vào màn hình. Đoạn băng dài một phút nhanh chóng kết thúc, ông ấy vẫn giống như lần trước, ánh mắt lờ đờ, môi không động đậy. Tôi và Thẩm Thư nín thở, chờ đợi kỳ tích xảy ra, căn phòng yên tĩnh đến độ có thể nghe thấy tiếng kim đồng hồ.

Cái tĩnh lặng đến sốt ruột này kéo dài đúng ba phút, Phí Nghị Lâm ngoài thở gấp thì không phát ra một tiếng động nào. Tôi cuối cùng cũng không nhẫn nại được, hỏi ông ta một cách đầy nghi hoặc: “Lão Phí, tài xế ta-xi trong đoạn băng đó nói gì?” Phí Nghị Lâm ngẩng đầu, ngô nghê nhìn tôi, ánh mắt đục ngầu không mang theo bất cứ một biểu cảm nào. Tôi tăng thêm ngữ khí thúc giục ông ta: “Rốt cuộc ông có nghe ra không? Nói gì đi chứ, hay chúng ta xem lại lần nữa nhé?” Phí Nghị Lâm há hốc mồm, ngơ ngác lắc đầu, bỗng nhiên bật khóc nức nở, nước mắt đầm đìa, vô cùng thảm thương.

Tôi và Thẩm Thư đánh mắt nhìn nhau, trong lòng lạnh ngắt. Thẩm Thư thở dài, nói: “Ông ấy không nghe ra, bỏ đi, đừng ép ông ấy nữa, chắc hôm nay mệt quá rồi, để ông ấy nghỉ ngơi, ngày mai chúng ta thử lại xem sao.”

Sự kỳ vọng sục sôi trong lòng tôi bị một gáo nước lạnh dập tắt. Đêm đó tôi nằm trên giường, lật qua lật lại mà không sao ngủ được, trong đầu toàn là hình ảnh mái tóc và bộ râu dài màu trắng xám cùng ánh mắt đục ngầu trợn tròn của Phí Nghị Lâm. Rốt cuộc ông ta có năng lực đọc ngôn ngữ môi hay không? Tại sao ở nhà ông ấy thì trăm lần thử đều được cả trăm, đến lúc cầm dao súng thật ra trận thì một câu cũng không nghe ra?

18.

Sáng ngày 9 tháng 7 năm 2002. Mưa bão.

Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên.

Còn chưa kịp để Phí Nghị Lâm “nghe” đoạn băng ấy, thì toàn Sở thành phố lại bị khuấy động bởi vụ án phân xác thứ ba.

Vụ án phân xác này giống như cơn ác mộng chụp lên đầu toàn thể thành viên của đội trọng án một cách nặng trĩu. 6 giờ sáng, cả đêm qua còn chưa được chợp mắt thì tôi lại nghe được câu chuyện khi đang nằm trên giường: Tương tự với hai vụ án lần trước, nhóm mảnh thi thể thứ ba cũng được tìm thấy ở trên chuyến tàu tuyến Bắc Kinh – Quảng Châu. 11 giờ tối hôm qua, cũng là lúc chúng tôi và Phí Nghị Lâm đang xem đoạn băng ghi hình, một chuyến tàu chậm chở hàng trên tuyến Bắc Kinh – Quảng Châu đến ga cuối cùng, sau khi toàn bộ hành khách đã xuống tàu, nhân viên tàu đi kiểm tra các khoang thì phát hiện ra ở khoang giữa có một bao tải lộm cộm. Mở ra kiểm tra thì trông thấy một cái đầu người với cặp mắt trợn trừng, tóc tai rũ rượi đã bị phân hủy nặng nề. Nghe nói nhân viên nữ ấy đã bị dọa cho hồn bay phách lạc, quên mất bỏ lại chiếc bao tải, ôm theo cả cái đầu người mà chạy. Toa tàu ở ga cuối vô cùng trống trải, cô ta chạy khắp mấy toa mà không gặp được ai, trong cơn hốt hoảng còn tưởng cái đầu đó đang đuổi theo mình, ngã lăn ra sàn ngất, hiện đã được đưa vào viện để kiểm tra.

Chuyến tàu này lại thuộc phạm vi quản lý của cảnh sát khu Thổ Lĩnh. Cảnh sát trưởng Kiều Bản Sơ lập tức báo cáo vụ án lên Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên, trước đó ông ta đã biết chuyện tôi và Thẩm Thư đưa Phí Nghị Lâm đi, không biết xuất phát từ tâm lý gì, khi nói chuyện điện thoại với Giám đốc Sở Lưu Bách Phát đã đem chuyện này ra chế nhạo: “Vụ án này trì trệ mãi mà chưa được phá, cảnh sát đường sắt chúng tôi cũng bị vạ lây. Lời đồn quá nhiều, miệng thiên hạ thì không thể lấp được, nước thải nào cũng trút lên đầu cảnh sát đường sắt chúng tôi, chúng tôi có miệng mà chẳng thể tranh cãi, mong các anh tranh thủ thời gian để phá án, nếu không việc kinh doanh vận tải đường sắt sẽ bị ảnh hưởng, trách nhiệm này tôi không gánh vác được đâu. Đội trưởng đội trọng án của các anh không phải rất tài giỏi đó ư? Sao lần này lại kém cỏi thế? Hôm qua còn đến thị trấn Cổ Bảo để đưa lão Phí của cảnh sát khu vực chúng tôi đi, nói là nhờ ông ấy điều tra vụ án. Có người nói cái cậu đội trưởng này có bệnh nên vái tứ phương, đến tôi cũng không hiểu nổi, 10 năm trước lão Phí là một trợ thủ đắc lực để phá án, nhưng giờ ông ấy ngớ ngẩn rồi, sao còn phát huy tác dụng được nữa? Hóa ra 10 năm nay chúng tôi không trọng dụng lão Phí, là phí phạm nhân tài sao?”

Cấp bậc của Kiều Bản Sơ và Lưu Bách Phát tương đương nhau, nhưng không giống như Lưu Bách Phát là chư hầu địa phương, có trận địa của riêng mình, phạm vi quản lý và thực quyền đều rất lớn, môi trường làm việc béo bở. Kiều Bản Sơ vốn đã không ưa gì Giám đốc Sở Cảnh sát, nên nhân cơ hội này liền úp úp mở mở vài câu. Cơn tức tối kìm nén trong lồng ngực Lưu Bách Phát mà không sao thoát ra ngoài được, lại không dám bực tức với Kiều Bản Sơ, đành dối lòng mà nói qua loa mấy câu cho xong chuyện.

Lúc này những mảnh thi thể đã được đưa đến phòng pháp y của Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên. Cách bọc mảnh thi thể, dây thừng, túi ni-lông và bao tải đều giống y hệt hai lần trước, có thể xác định do cùng một người làm. Kết quả giám định thi thể cho thấy, thời gian nạn nhân bị hại là bốn ngày trước, toàn thân bị tách rời thành đầu, thân, tứ chi. Công cụ phân xác là máy cưa điện, hung thủ không hề thông thạo kết cấu cơ thể người, rất nhiều khớp xương bị cưa đứt một cách cưỡng chế, ở miệng vết thương còn lưu lại những vụn xương sắc nhọn. Nạn nhân là nữ giới, độ tuổi từ 20 đến 30 tuổi. Trong âm đạo còn sót lại tin.h dịc.h, qua hóa nghiệm xác định là của một đàn ông có nhóm má.u AB để lại. Do thi thể bị phân hủy nặng nề, không thể xác định được nạn nhân bị cưỡng bước trước hay sau khi chế.t. Trong dạ dày nạn nhân có thịt kho tàu, hải sản, rau xanh, hoa quả và cồn, dựa vào mức độ tiêu hóa để phán đoán, việc ăn uống được tiến hành 2 tiếng trước khi chế.t.

Các loại dấu vết đã cho thấy, nạn nhân này và Hứa Minh Minh, Miêu Diểu đều làm việc ở trong tụ điểm giải trí. Tôi cắt mở phần da ở cổ họng cô ta, kiểm tra sụn giáp, quả nhiên, có vết má.u tụ và vết xương gãy, nạn nhân đã bị ghì cổ đến chế.t.

Cắt mở lớp da mặt, mô hạ bì và phần cơ, một sống mũi trắng toát hiện ra. Không ngoài mong đợi, là mũi nâng nhân tạo, tim tôi đập mạnh, chỉ cần có dấu vết chỉnh hình thì vụ án sẽ không đến mức hoàn toàn không có manh mối. Kiểm tra tiếp phần xương hàm, từng được phẫu thuật cắt gọt. Răng, có hai cái được bọc sứ. Ngực, được độn hai miếng silicon. Hai chân đã được hút mỡ. Mông được bơm. Bàn chân cũng được gọt. Có hơn mười mấy chỗ trên cơ thể cô ta đã từng động dao kéo.

E rằng đây là điều mà tên hung thủ trăm phương ngàn kế không nghĩ tới. Ba người phụ nữ mà hắn giế.t hại, bên trong cơ thể đều có dấu vết nhân tạo, nhất là nạn nhân cuối cùng, có đến tận 7 – 8 manh mối để truy ra được danh tính. Điều này khiến cho việc hắn dùng cách phân xác và vứt lên tàu nhằm che giấu danh tính nạn nhân trở nên tốn công vô ích. Có lẽ nên nói là, may nhờ có kỹ thuật chỉnh hình hiện đại, may nhờ các chị em phụ nữ ham mê chỉnh hình đã để lại trong cơ thể ba nạn nhân những tấm “danh thiế.p” không dễ bị phá hủy.

Bên trong cơ thể nạn nhân này, manh mối dễ dàng truy ra nhất có lẽ là miếng độn mông. Kỹ thuật bơm mông thường có hai cách, một là tự hút mỡ của bản thân, tức hút mỡ từ những bộ phận khác trên cơ thể, sau đó bơm lại vào mông. Còn một cách nữa là độn bộ phận giả, tức silicon hoặc những bộ phận giả khác, khiến cho phần mông được độn sẽ căng tròn hơn, đương nhiên, trình độ kỹ thuật của bộ phận giả này rất cao, bởi mông là bộ phận gánh chịu toàn bộ trọng lượng cơ thể người khi ở tư thế ngồi, sản phẩm có một chút khuyết điểm là sẽ bị vỡ ngay. Trong đó, cách đầu tiên thường gặp nhất, cách thứ hai giá thành không hề rẻ, rất ít người làm. Nhất là 10 năm trước, toàn bộ thành phố Sở Nguyên chỉ có một bệnh viện chỉnh hình được người Hàn Quốc đầu tư là có thể thực hiện được thủ thuật này.

Quá trình thu thập chứng cứ vô cùng thuận lợi, dựa vào số hiệu của miếng độn mông đã tra ra được danh tính của nạn nhân: Tiền Đông Diễm, thạc sỹ chuyên ngành Lý luận chủ nghĩa Marx khóa 2001 của trường Đại học Chính trị Sở Nguyên. Trông thấy kết quả điều tra này, Thẩm Thư chế.t đứng, người này cậu ấy đã từng gặp, cô ta là bạn thân của nạn nhân thứ nhất Hứa Minh Minh, cũng làm gái tay vịn ở phòng hát Grammy. Cách đây không lâu cô ấy còn rất hào nhoáng, nụ cười rạng rỡ, đi lại như con thoi giữa chốn xiêm áo thơm lừng để nghênh đón những vị khách thập phương, ai mà ngờ bây giờ lại biến thành những khúc thịt thối rữa, nghĩ đến thôi là khiến con người ta vô cùng thổn thức.

Vu Ngân Bảo cũng nhớ ra cái tên này, lúc đó cậu ta đã cùng với Thẩm Thư tìm đến Tiền Đông Diễm để điều tra thu thập chứng cứ, lại còn bị cô ta mỉa mai, chê cậu ta ít tiền. Vu Ngân Bảo thốt lên kinh ngạc: “Sao lại là cô ta? Quan hệ giữa cô ta và Hứa Minh Minh rất tốt, hai người bạn gặp họa cùng nhau, lẽ nào hung thủ thực sự quen biết bọn họ?”

Thẩm Thư không tiếp lời. Tôi có thể nhìn ra sự phẫn nộ và lăng nhục trong lòng cậu ta. Hung thủ liên tiếp gây án, hiế.p xác, phân xác, vứt xác, thủ đoạn cực kì tàn nhẫn biến thái, rõ ràng hắn muốn coi thường và sỉ nhục cảnh sát. Cậu ấy là người phụ trách chính của vụ án lần này, tận tâm tận lực, chạy đôn chạy đáo, khai quật được rất nhiều manh mối trọng đại, nhưng đến bước ngoặt cuối cùng lại gặp phải nút thắt cổ chai. Tuy không biểu hiện ra ngoài mặt, nhưng tâm trạng sốt sắng của cậu ta không cần nói cũng hiểu.

Nhưng Vu Ngân Bảo lại không biết ý tứ, cứ truy hỏi: “Lão Phí, chuyên gia dấu vết mà chúng ta mời đến thế nào rồi? Có khai thác được gì từ đoạn băng ghi hình không?” Thẩm Thư lắc đầu, đáp: “Thử mấy lần rồi, đều không đọc được, cảm xúc của lão Phí rất bất ổn định, không thể ép ông ấy liên tục, phải để ông ấy được nghỉ ngơi. Kỳ lạ là, ông ta có thể đọc được phim truyền hình và cuộc trò chuyện thường ngày của chúng ta, nhưng một đoạn băng ghi hình nhỏ ấy lại không đọc ra được, nhẽ nào ngôn ngữ của tài xế ta-xi đó không giống với chúng ta?”

19.

Chiều hoàng hôn ngày 9 tháng 7 năm 2002. Mưa vừa tạnh.

Đại đội trọng án Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên.

Ánh chiều tà đỏ như má.u. Thẩm Thư và Phí Nghị Lâm ngồi đối diện với nhau, cúi đầu ăn hộp cơm được mua từ nhà ăn. Phí Nghị Lâm ăn rất ngon miệng, bất luận là thức ăn vị gì đều ăn một cách ngon lành, ăn như gió cuốn mây tan. Sức ăn của Thẩm Thư thì yếu, tướng ăn cũng nho nhã hơn nhiều, nhai một cách từ tốn, nhưng tôi nghi bộ óc của cậu ta lúc ăn vẫn quay như chong chóng.

Tôi mở cửa bước vào, Phí Nghị Lâm dường như không hề hay biết mà cứ tiếp tục cắm đầu mà ăn, Thẩm Thư ngẩng đầu nhìn tôi, hỏi: “Sao cô lại đến đây?” Tôi đặt một hộp cơm lên bàn, đáp: “Lão Phí ở đây, tôi sợ ông ấy không quen đồ nhà ăn nên đã làm ít lòng thập cẩm hầm mang đến, khẩu vị hơi nhạt, hai người đều ăn một chút đi.” Phí Nghị Lâm tuy không ngẩng đầu, nhưng lại “nghe” ra lời tôi nói, thích thú mở hộp cơm, gắp một đống thức ăn bỏ vào bát của mình, nhai ngấu nghiến.

Không khí mới có chút vui tươi thì Vu Ngân Bảo hồng hộc chạy đến, nói: “Lưu Bách Phát đến rồi.”

Thẩm Thư đặt đũa xuống rồi đứng dậy, ngạc nhiên hỏi: “Ông ta chưa từng đến đội trọng án, hôm nay có việc gì gấp chăng?”

Lưu Bách Phát phăm phăm đi tới.

Nói đến đây rồi thì phải giải thích một chút cho bạn đọc hiểu, 3 năm trước khi tôi bắt đầu viết cuốn sách này, Lưu Bách Phát đã bị tống vào tù vì tội tha hóa, biến chất, tham ô, nếu không dù tôi có gan lớn đến đâu cũng không dám để một từ ngữ mạo phạm cấp trên nào xuất hiện trong sách. Tôi là một người bề ngoài mạnh mẽ nhưng bên trong lại rất nhát gan, không dám đắc tội với những quan chức đương quyền đắc thế, nhưng đánh rắn dập đầu lại là nghề của tôi. Tôi không có khả năng phán đoán, đa số mọi người cho là đúng, thì tôi cũng cho là đúng, làm việc theo đám đông, không dám đi ngược dòng, chỉ sợ bị người khác chèn ép, cô lập ra bên ngoài. Thẩm Thư thì lại hoàn toàn trái ngược với tôi, tỏ ra ba phải với những chuyện nhỏ, ai mà không hiểu sẽ nghĩ cậu ấy là một người vô nguyên tắc, nhưng với những chuyện phải trái rõ ràng, cậu ấy tuyệt đối không mập mờ, bất luận có khó khăn thế nào, trở ngại đến đâu thì cậu ta cũng dám xông lên đến cùng. Cậu ta không sợ chỉ trích, không sợ bị cô lập, có chút “Tự phản nhi súc, tuy thiên vạn nhân, ngô vãng hĩ” (Công Tôn Sửu – Mạnh Tử, nghĩa là: Tự ta phản tỉnh, nếu như không có đạo lý, dù là Lê dân bách tính, ta có thể không sợ sao? Ngược lại, nếu sau khi tự ta phản tỉnh mà có thể lẽ thẳng khí hùng, không hổ thẹn với lương tâm đạo lý, dù có là thiên quân vạn mã, ta vẫn có thể dũng cảm tiến tới, quyết không chùn bước). Bề ngoài cậu ta mỏng manh, nhưng lại giấu kim trong bọc, ai mà nghĩ cậu ta dễ bắt nạt thì thử động vào xem, nhất định sẽ bị đâm cho đau tay, càng dùng lực thì lại càng đau.

Hơi lan man rồi, lại nói về Lưu Bách Phát. Ông ta vác bộ mặt tái mét bước vào phòng làm việc, vừa nhìn là biết có điều chẳng lành. Sau này tôi mới hay, trước khi ông ta đến đã bị Phó Bí thư Thành ủy phụ trách chính pháp chửi cho một trận, nên đang ôm cục tức trong lòng. Giai đoạn này, công tác bề mặt của Sở Cảnh sát làm rất tốt. Chi đội trị an đã mở cuộc hành động “Trừ gian diệt ác vào từng khu phố”, cùng với các bà bác trong tổ dân phố lập ra khẩu hiệu tuyên truyền “Năm dự phòng, bốn giám sát, ba khai thông”, dán đỏ rực hai bên đường; Chi đội phòng chống tội phạm ma túy không muốn theo gót vào các khu phố, nên đã bắt tay cùng Đoàn ủy thành phố tiến vào khuôn viên trường học, nhà máy và vùng nông thôn, không ngừng tuyên truyền cho thanh niên về tác hại của ma túy, khơi dậy lòng hiếu kỳ mãnh liệt của những bạn trẻ vốn không biết ma túy là gì; Thành tích của Chi đội giao thông cũng không tệ, trừ số lượng lập biên bản phạt tăng lên, còn kêu gọi được mấy chục mỹ nhân các trường Đại học, thành lập đội kỵ binh, nghe báo cáo thì những đội mỹ nữ kỵ binh này đã trở thành biểu tượng của thành phố Sở Nguyên. Chỉ có Chi đội cảnh sát hình sự là khiến cho Lưu Bách Phát không được nở mày nở mặt, ba vụ án phân xác liên tiếp này, chỉ dựa vào những khẩu hiệu và mỹ nhân thì không thể che đậy được, mà đội trọng án thì vẫn trì trệ không phá được án, Lưu Bách Phát bị Kiều Bản Sơ ở cảnh sát khu Thổ Lĩnh xem thường, lại bị lãnh đạo cấp trên chửi cho đẹp mặt, trong lòng ấm ức, hùng hổ tìm tới Thẩm Thư để trút giận.

Tiến vào trong, ông ta không lập tức nổi giận ngay, dù sao thì cấp bậc của Thẩm Thư cũng thấp hơn ông ta nhiều, tuổi lại nhỏ hơn một nửa, nếu chửi trực tiếp thì sẽ mất tôn nghiêm. Lưu Bách Phát tìm kiếm một vòng trong phòng làm việc, ánh mắt dừng lại trên người Phí Nghị Lâm đang ăn uống hăng say: “Đây là ai?” Thẩm Thư đáp: “Vẫn chưa giới thiệu cho sếp biết, đây là Phí Nghị Lâm, chuyên gia dấu vết của cảnh sát khu Thổ Lĩnh, tôi đã mời ông ấy đến để giúp điều tra phá án.” Lưu Bách Phát đã tìm ra cái cớ, lập tức nổi đóa: “Không hỏi ý kiến không báo cáo, tự ý mời người ngoài tới, ai cho cậu cái quyền đó hả?”

Thẩm Thư đáp: “Theo quy tắc thì những quá trình làm án cụ thể này không cần phải báo cáo lên cho Giám đốc Lưu, trước khi mời tôi đã thông qua Giám đốc Sở Cao Đại Hùng, ông ấy đã đồng ý.” Câu trả lời của Thẩm Thư không thể bắt bẻ được, Lưu Bách Phát kéo Thẩm Thư sang một bên, cố ý hạ giọng nói: “Cậu có biết cậu đã làm ra cái trò cười gì không hả? Đây là một tên ngốc,” Lưu Bách Phát chỉ tay vào đầu mình: “Chỗ này của ông ta đã bị thương, trở nên ngớ ngẩn rồi, người mà cảnh sát khu Thổ Lĩnh không cần đến, cậu lại coi như bảo bối rồi mời về, cậu cố tình gây chuyện đúng không? Người thông minh như cậu, sao lại làm ra cái việc ngu ngốc này cơ chứ?”

Lời của Lưu Bách Phát, Phí Nghị Lâm “nghe” rất rõ ràng, ông ta nhìn về phía khuôn mặt phốp pháp của Lưu Bách Phát, cười “hi hi” một tiếng, sau đó lại cắm đầu vào ăn.

Thẩm Thư tỏ ra bất mãn với thái độ khinh miệt của Lưu Bách Phát,  phản bác nói: “Sau khi lão Phí bị thương, ông ấy chỉ mất đi khả năng tự lo liệu cuộc sống, còn sở trường vốn có thì vẫn ở đấy. Tài năng của ông ấy, một nửa là bẩm sinh, một nửa là do luyện tập mà thành, gần như là bản năng, không dễ gì đoạt mất.”

Tuy ngữ khí của Thẩm Thư không hùng hổ hăm dọa, nhưng trong lời nói không có một chút nhượng bộ, Lưu Bách Phát tức lên tận óc, buột miệng nói ra ngôn ngữ địa phương mà người dân quê ông ấy thường dùng để chửi nhau: “Gơ cha, mi mới ăn có mấy hột cơm mà đã dám lên mặt dày đời ông già này ư? Ta nói cho mi hay, mi mau tống cổ tên đần này đi, đừng để ta phải mất mặt thêm nữa.”

Lưu Bách Phát còn chưa dứt lời, Phí Nghị Lâm đã lớn tiếng khà khà rồi lao về phía ông ta, Lưu Bách Phát trông thấy bộ dạng râu tóc xồm xoàm của ông ấy, vội né ra đằng sau, nói: “Gơ cha, mi làm gì vậy?” Tôi sợ Phí Nghị Lâm sẽ làm Lưu Bách Phát bị thương, sợ gặp bất lợi, vội nói: “Lão Phí, Giám đốc Lưu đang trêu đùa với ông đó mà, ông đừng tưởng thật, mau về chỗ đi.”

Nghe lời khuyên, Phí Nghị Lâm đứng lại không nhúc nhích, nhưng vẫn khua chân múa tay, lớn tiếng khà khà, mặt đỏ gay, bộ dạng rất kích động. Thẩm Thư dường như nhận ra điều gì: “Không đúng, phản ứng của lão Phí rất bất thường, vụ việc này thật khó hiểu, Giám đốc Lưu, phiền sếp hãy chửi lại lần nữa.” Lưu Bách Phát vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, chửi Thẩm Thư: “Gơ cha nhà mi, có ý chi rứa?” Phí Nghị Lâm khua chân múa tay, miệng lẩm nhẩm nghe chẳng rõ: “Gơ cha, gơ cha.”

Giống như tia sét xé ngang trời, khoảnh khắc đó trong đầu tôi lóe lên một tia sáng, buột miệng nói: “Đoạn băng đó, tài xế ta-xi trong đoạn băng đó nói giọng Tứ Xuyên.” Thẩm Thư gật đầu tỏ ý tán đồng, ánh mắt ánh lên tia hưng phấn.

Lưu Bách Phát ngơ ngác không hiểu chuyện gì, vẫn tiếp tục chửi: “Gơ cha, ăn nói hàm hồ, có ý chi rứa?”

20.

Sáng ngày 12 tháng 7 năm 2002. Trời nắng đẹp.

Phòng Kỹ thuật điều tra Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên.

Phí Nghị Lâm đúng là thiên phú kỳ tài, chỉ mất có ba ngày đã nắm được hầu hết đặc trưng ngôn ngữ môi của giọng Tứ Xuyên, đã thế còn học một biết mười, có thể mô phỏng lại phần lớn phát âm của thứ tiếng địa phương không thuận miệng lại khó hiểu này.

Dưới đây là lời của tài xế ta-xi trong đoạn ghi hình được ông ấy cắt nghĩa rồi thuật lại:

“Miêu Diểu, Miêu Diểu.” Dừng lại một chút.

“Cô lại uống say rồi, cuộc sống sênh ca thối nát hàng đêm này, cô thực sự thích lắm sao? Cô và Lý Đại Khôn hợp nhau lắm, một cặp tấu hài. Loại người như bọn cô, sống tạm bợ trên thế giới này thì có ý nghĩa gì?”

“Tôi đã quan sát cô rất nhiều ngày rồi, cô đúng là một con đàn bà đê tiện, buổi sáng thì cô áo mũ gọn gàng, sống đường hoàng dưới thân phận của một phóng viên truyền hình. Đến tối, cô lại biến thành một con điế.m từ đầu đến đuôi, quần nhau với đám gian thương và lũ quan viên béo ụt ịt, dùng cái đẹp đẽ nhất của người phụ nữ để đổi lấy thứ nhu cầu vật chất không giới hạn của cô. Một tâm hồn nhơ nhớp không nên được giấu trong lớp vỏ bọc mỹ lệ, tôi sẽ thay Chúa để thu nó về.”

“Gơ cha, từng có một con đàn bà giống cô đã làm tổn thương tôi sâu sắc, coi tôi như thằng ngu, đùa bỡn tôi một cách vô tình. Tôi sẽ đem tất cả loại đoàn bà như các cô dâng lên Chúa, để Ngài giáo huấn các cô. Dù gì cô cũng không nói đi đâu, thế thì về nhà tôi vậy, không xa lắm đâu, chỉ có mười mấy phút thôi, căn nhà tôi chính là cây cầu nối giữa trần thế và thiên đường.”

Nghe lời thuật lại của Phí Nghị Lâm, lông mày của Thẩm Thư giãn ra, thở dài một cái, lập tức nhấc điện thoại, lấy Phòng Kỹ thuật điều tra làm trung tâm chỉ huy tạm thời của cậu ấy, giao nhiệm vụ cho hai cảnh sát đắc lực nhất là Quản Nguy và Vu Ngân Bảo: “Lập tức điều tra toàn bộ dân di cư từ Tứ Xuyên trong thành phố, tập trung trọng điểm vào khu Hòa Bình và Thiết Đông. Đối tượng điều tra là nam giới, tuổi từ 25 – 45, thân hình hơi gầy, có khả năng sống một mình chưa kết hôn, từng nhận được sự giáo dục tốt, khả năng theo đạo Cơ Đốc. Người này có một chiếc xe FengChi màu đỏ, có khả năng là xe ta-xi. Đem tất cả tài liệu về những người đàn ông phù hợp với những điều kiện trên, bao gồm chứng minh thư của họ, tổng hợp lại làm một, càng chi tiết càng tốt, càng nhanh càng tốt. Yêu cầu toàn bộ đồn cảnh sát trong thành phố phối hợp, lập tức hành động, cố gắng trước đêm nay phải bắt được kẻ tình nghi.”

Giao việc xong, Thẩm Thư đặt tay lên vai Phí Nghị Lâm lúc này đang ngồi trên ghế, đẩy ông ấy về phía tôi, nói: “Bây giờ tôi phải quay về đội trọng án, lão Phí là bảo bối mười năm có một, cô hãy chăm sóc cho ông ấy cẩn thận, vụ án này nếu như được phá thì công lao của lão Phí là lớn nhất.” Tôi ôm đồm đáp: “Không vấn đề, lão Phí, chốc nữa tôi dẫn ông đi ăn vịt quay.”

21.

Chiều hoàng hôn ngày 12 tháng 7 năm 2002. Trời rực đỏ.

Đội trọng án Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên.

Có tổng cộng 75 tập tài liệu về những người đàn ông trong thành phố phù hợp với điều kiện của nghi phạm, dựa vào thể hình, trình độ giáo dục, tình hình cư trú, sàng lọc ra 27 người. Thẩm Thư lần lượt lật xem những bản pho-to chứng minh thư của những người này, bỗng nhiên nhìn chằm chằm vào một tấm ảnh trong số đó.

Vu Ngân Bảo hỏi: “Sao thế? Người này có vấn đề à?” Thẩm Thư đáp: “Người này nhìn mặt rất quen, hình như tôi từng gặp ở đâu rồi?” Vu Ngân Bảo cầm lấy ngắm nghía hồi lâu, đáp: “Không có ấn tượng, nhớ không ra.” Thẩm Thư nói: “Khi chúng ta điều tra về vụ án của Hứa Minh Minh, đã tiếp xúc với mấy tay tài xế ta-xi ở trước cửa phòng hát Grammy, một tay to xác, một tay râu quai nón, còn có một tay nhỏ con. Cậu xem xem đây có phải là cái tay nhỏ con đó hay không?” Được Thẩm Thư nhắc, Vu Ngân Bảo dường như cũng nhớ ra: “Đúng là có hơi giống, nhưng trên ảnh trẻ hơn nhiều, hơn nữa cái tay tài xế nhỏ con ấy không có một chút giọng Tứ Xuyên nào.” Thẩm Thư đáp: “Trên ảnh là mười năm về trước, giọng cũng có thể đổi được.”

Bên trên tài liệu về thân phận người đàn ông đó có ghi: Diêu Khắc Hoa, 35 tuổi, người Quảng Nguyên – Tứ Xuyên, chưa kết hôn, 7 năm trước di cư đến Sở Nguyên, hiện đang sống ở tiểu khu Kiến Thiết khu Thiết Đông. Cột nghề nghiệp được điền “Giảng viên Đại học”.

Thẩm Thư nói: “Ủa, một giảng viên đại học, giả làm tài xế ta-xi, thế mà không bị ai phát hiện. Lập tức thông báo cho cảnh sát quản lý tiểu khu Kiến Thiết, phối hợp với chúng ta để bắt người.” Khi Vu Ngân Bảo quay người chuẩn bị đi chấp hành nhiệm vụ, Thẩm Thư gọi với lại: “Báo cho cả bác sĩ pháp y Thục Tâm đi cùng với chúng ta, nơi ở của Diêu Khắc Hoa rất có thể là hiện trường phân xác.”

22.

8 giờ tối ngày 12 tháng 7 năm 2002.

Phòng 301 tiểu khu Kiến Thiết, khu Thiết Đông, thành phố Sở Nguyên.

Nhìn từ phía ngoài cửa sổ, bên trong căn phòng 301 mập mờ ánh đèn, rèm cửa đóng kín, thấp thoáng thấy được bóng người di chuyển. Diêu Khắc Hoa đang ở nhà.

Tuy thân hình của Diêu Khắc Hoa gầy còm, nhưng phản ứng rất nhạy bén, ra tay tàn nhẫn hung ác, là một đối thủ khó nhằn. Hơn nữa phía cảnh sát lại không rõ tình hình bên trong căn phòng, ngộ nhỡ hắn có vũ khí, hoặc không chỉ có một người ở trong nhà, đều có thể khiến cho hành động vây bắt phát sinh biến số, thậm chí tạo thành những thương vong không cần thiết. Sau khi Thẩm Thư quan sát qua địa hình, quyết định sẽ dụ bắt Diêu Khắc Hoa.

Nơi ở của Diêu Khắc Hoa là một tòa nhà đã có 30 năm tuổi đời, một tầng có ba hộ, hành lang không có đèn, tối đen như mực, tiện cho việc ẩn náu. Cầu dao hộp được lắp bên ngoài cửa. Theo kế hoạch, sau khi cảnh sát đội trọng án ẩn nấp ở cầu thanh xong, một cảnh sát sẽ lập tức dập công tắc nguồn điện nhà Diêu Khắc Hoa xuống, sau đó sẽ lặng lẽ ẩn mình vào trong màn đêm.

Lúc này hai cảnh sát một nam một nữ sẽ đứng ở hành lang tầng dưới lớn tiếng nói chuyện: “Ây da, cầu chì sao lại bị đứt rồi? Đại ca, nhà anh cũng bị nhảy át-tô-mát à?” “Không phải đâu, hình như chỉ có bên mình là bị thôi, bên kia vẫn bình thường. Đừng lo, chuyện nhỏ ấy mà, nối cầu chì lại là xong.” Nói như vậy là để Diêu Khắc Hoa khỏi lo lắng, cũng tránh để hắn trông thấy nhà người khác vẫn sáng đèn mà sinh nghi.

Cảnh sát ẩn nấp trong màn đêm, không hề động đậy, không cả dám thở mạnh. Sau 3 phút chờ đợi trong cái tĩnh lặng đến sốt ruột, cuối cùng cánh cửa phòng của Diêu Khắc Hoa cũng hé mở, có thể trông thấy một đôi mắt đang áp qua khe cửa để quan sát ra bên ngoài. Sau đó, một bóng hình gầy gò bước ra, đứng trước cầu dao hộp để theo dõi.

Lúc này, đội trọng án đột nhiên phát động, lao ra như mãnh hổ xuống núi, năm người đàn ông cường tráng đè chặt một người đàn ông gầy gò xuống đất. Người đàn ông đó phát ra một tiếng gào rú tuyệt vọng, ra sức vẫy vùng, nhưng chân tay lại như bị đai sắt siết chặt, không thể cựa quậy được. Một nòng súng lạnh lẽo, cứng ngắc chĩa vào trán hắn, sau đó, hai tai hắn bị tra vào còng.

Tất cả những cánh cửa phòng khác trên hành lang đều hé mở, rất nhiều con mắt mang theo sự hiếu kỳ và sợ hãi ngó ra bên ngoài.

Một ánh đèn pin rọi lên mặt hắn, Thẩm Thư lôi ảnh ra đối chiếu, không còn nghi ngờ gì nữa, chính là Diêu Khắc Hoa. Thẩm Thư có chút mỉa mai, nói: “Diêu Khắc Hoa, lần thứ hai gặp mặt, anh diễn cũng giỏi đấy, không khác gì một tài xế thực thụ.”

Tôi phát hiện ra một lượng má.u lớn trong nhà vệ sinh ở nhà Diêu Khắc Hoa. Tuy hắn đã cọ rửa sạch sẽ, nhưng dưới tác dụng của Luminol, những mảng má.u lớn ấy phát sáng rực rỡ trong bóng đêm như ma trơi, nhìn thấy mà sợ.

Kết thúc.

Diêu Khắc Hoa đã thừa nhận hành vi giế.t hại Hứa Minh Minh, Miêu Diểu và Tiền Đông Điễm, đồng thời khai nhận chi tiết quá trình hắn hiế.p xác, phân xác rồi vứt xác. Hắn nói, cứ tưởng quá trình mưu sát của mình không để lộ một sơ hở, có mơ cũng không nghĩ là thần binh của đội trọng án sẽ giáng trần, bắt hắn ngay trước cửa nhà. Hắn vốn định giế.t 10 người, hơn nữa đã xác định được mục tiêu sát hại, còn lên cả kế hoạch gây án tỉ mỉ.

Diêu Khắc Hoa từng có một trải nghiệm tình cảm khiến hắn tan nát con tim, khiến cuộc sống của hắn sản sinh kịch biến, cũng khiến cho tính cách của hắn trở nên ngang bướng quá khích, căm ghét xã hội cực độ. Năm hắn 25 tuổi, người phụ nữ đã tính chuyện trăm năm cùng hắn bỗng rời đi không một lời cáo biệt, cùng với một người đàn ông đã kết hôn vượt ngàn trùng dương để đến nước Đức. Mà người đàn ông kia, chính là kẻ mà bạn gái hắn quen biết khi làm gái tay vịn. Diêu Khắc Hoa dù thế nào cũng không thể tin nổi, người con gái mà hắn yêu hết lòng, người con gái với vẻ ngoài thuần khiết, ăn nói nhỏ nhẹ, tính cách thanh nhã như hoa lan ấy, không chỉ là một nhân viên văn phòng, mà còn là gái tay vịn. Cuộc sống hậu đãi của cô ta, đều từ việc bán rẻ linh hồn và xác thịt mà ra. Điều khiến hắn khó chấp nhận nhất, là sự giả tạo của cô ta đã qua mắt được hắn. Khi hắn quý trọng cô ta như sinh mạng, thì cô ta lại coi hắn như rẻ rách, thậm chí đến việc chào hỏi cũng chả buồn đánh một tiếng. Chuyện này luôn là thất bại lớn nhất trong cuộc đời thuận buồm xuôi gió của Diêu Khắc Hoa, hắn thậm chí còn nảy sinh tâm lý tự sát. Sau một cơn trọng bệnh, hắn đã rời khỏi quê nhà Tứ Xuyên, nơi mà khắp nơi đều là hình bóng của người yêu cũ, một mình đến Sở Nguyên, xin tuyển dụng vào làm giảng viên một trường Đại học, sau đó rửa tội và trở thành tín đồ Cơ Đốc giáo, tin rằng sức mạnh tôn giáo sẽ giúp hắn thoát khỏi quá khứ mà hắn không muốn hồi tưởng lại.

Kể từ đó, hắn ta không còn tin bất kỳ người phụ nữ nào nữa, nhất là những cô gái trẻ bên ngoài thì hào nhoáng, nhưng bên trong lại làm những việc đê hèn, bỉ ổi. Hắn đã nhiều lần có ý định giế.t người, nhưng cuối cùng đã dùng lý trí để khống chế bản thân. Mãi cho đến một năm về trước, hắn trông thấy bạn gái cũ của mình khoe khoang cuộc sống riêng tư của mình trên mạng xã hội. Ở nơi đất khách quê người, cô ta càng trắng trợn, thông qua việc lừa dối tình cảm và bán rẻ xác thịt để đổi lấy nhà lầu, xe hơi và ngọc ngà châu báu, lại còn trưng ra cho thiên hạ xem, lấy đó làm vinh dự. Con đê chắn sóng tâm hồn của Diêu Khắc Hoa trong phút chốc bị sụp đổ, cuối cùng hắn ta bắt đầu điên cuồng sát hại, để trút hết sự căm thù khắc cốt ghi tâm với phụ nữ và xã hội này.

Ngày 18 tháng 10 năm 2002. Những cơn gió mùa Thu bắt đầu thổi, ý Thu phả vào trong không khí.

Tòa án trung cấp thành phố Sở Nguyên phán quyết Diêu Khắc Hoa phạm tội giế.t người, tuyên án tử hình, lập tức thi hành. Diêu Khắc Hoa đứng trước tòa biểu thị đồng ý với phán quyết, không yêu cầu kháng án.

1 giờ chiều, Diêu Khắc Hoa được đưa ra pháp trường, xử bắn.

[Hết]

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *