Trước tiên chúng ta phải biết rằng, quy mô dân số trong lịch sử bị giới hạn nghiêm ngặt bởi quy mô sản xuất lương thực. 1 quốc gia đông dân thì điều kiện tiên quyết nhất là phải sản xuất đủ lương thực cho người dân quốc gia đó. Không sẽ xảy ra nạn đói triền miên, dân số sẽ sụt giảm cho đến khi quy mô dân số tụt xuống bằng đúng mức độ cung ứng sản lượng lương thực quốc gia.
Trung Quốc được biết đến là quốc gia đông dân hàng đầu thời cổ đại cũng vì họ là 1 quốc gia quân chủ tập quyền thống nhất, với khả năng huy động nguồn lực lớn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Chính sách của các triều đại Trung Quốc cũng đều chú trọng vào phát triển nông nghiệp.
Ngoài những lý do phổ biến ai cũng biết như hệ thống kênh đào khổng lồ, diện tích đồng bằng rộng lớn, điều kiện thiên nhiên ưu đãi, tài nguyên trú phú, việc chuyển từ lúa mì, kê,… sang lúa gạo cho năng suất cao hơn,…?
Chúng ta phải kể đến nguyên nhân quan trọng nhất, đó là việc phát hiện ra Châu Mỹ.
Kể từ khi Colombo phát hiện ra tân thế giới, rất nhiều loại cây củ lạ từ Châu Mỹ như thuốc lá, đu đủ, cà chua, cacao,… được đem đi khắp thế giới. Đặc biệt các cây lương thực như khoai tây, khoai lang, ngô với năng suất rất cao đã tạo nên 1 cuộc cách mạng về thặng dư lương thực khắp dải lục địa Á-Âu. Dân số nhân loại tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh đó còn khiến giá gia vị, hương liệu giảm rất mạnh do nguồn cung dồi dào, phong phú mà còn rẻ như bèo. Người dân giờ đây không những yêu cầu ăn no mà còn phải ăn ngon. Dân Châu Âu giờ đây có thể ăn súp khoai tây với thịt lợn muối, bánh ngô rắc hạt tiêu, ớt, hành, tỏi. Uống Cà Phê với ăn bánh Sô cô la chế từ quả cacao hàng ngày, hút thuốc lá như người dân bản địa Châu Mỹ.
Vài thế kỷ sau, người Châu Á cũng được hưởng lợi như vậy. Khi các loại cây lương thực như ngô, đậu được đem đến Trung Hoa vào thời nhà Minh, dân số Trung Hoa tăng mạnh từ 65 triệu (thế kỷ 14) lên 140 triệu (thế kỷ 17). Khi người Châu Âu đem các loại khoai lang, khoai tây đến Đế Quốc Thanh vào thế kỷ 18. Dân số Trung Hoa tăng mạnh từ 170 triệu lên 450 triệu người vào cuối thế kỷ 19.
Trước thế kỷ 15, dân số Trung Quốc đều bị giới hạn ở mức 120 triệu trở xuống. Các điều kiện tự nhiên như đồng bằng rộng lớn, màu mỡ, hệ thống kênh đào khổng lồ, hay khoảng thời gian thái bình thịnh trị cả trăm năm cũng không thể tạo nên sự đột phá giúp dân số Trung Quốc vượt mức giới hạn kể trên. Nhưng những loài cây lương thực năng suất cao do người Châu Âu đem đến, kết hợp cùng những điều kiện sẵn có tại Trung Quốc lại làm được.
Và nguyên nhân tiếp theo giúp 450 triệu dân tăng đến 1,3 tỷ người như ngày nay đó là công nghệ sản xuất nông nghiệp hiện đại Châu Âu đem đến. Quan trọng nhất là sử dụng phân hóa học. Quá nửa lượng đạm trong thực phẩm người Trung Quốc ngày nay ăn là đến từ phân bón hóa học vô cơ [phân đạm]. Nếu không sử dụng phân hóa học thì một nửa số dân Trung Quốc sẽ chết đói. (*)
Kỹ thuật sản xuất phân đạm đến từ đâu? Kỹ thuật này do nhà khoa học người Đức Fritz Habe và kỹ sư Carl Bosch của công ty BASF phát minh ra vào năm 1918. Năm 1972, sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Nixon, Trung Quốc đã làm thương vụ đầu tiên với Mỹ: mua 13 hệ thống thiết bị sản xuất chất Ure tổng hợp quy mô lớn nhất, hiện đại nhất thế giới hồi ấy, trong đó có 8 hệ thống thiết bị của công ty Mỹ Kellogg.
TLDR: nguyên nhân quan trọng nhất khiến dân số Trung Quốc tăng mạnh là do các ảnh hưởng của thế giới Phương Tây kết hợp với các điều kiện tự nhiên ở Trung Quốc, cùng khoảng thời gian hòa bình lâu dài đã vô tình khiến Trung Quốc có dân số lớn nhất thế giới ngày nay!
————-
(*) Lý thuyết này được đưa ra bởi giáo sư Trương Duy Nghênh (Zhang Weiying 张维迎, 1959-), tiến sĩ kinh tế học Đại học Oxford Anh Quốc, Giáo sư Đại học Bắc Kinh, đồng sáng lập Viện Nghiên cứu phát triển quốc gia, nguyên Giám đốc Học viện Quản lý Quang Hoa, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Mạng (ba cơ quan này đều thuộc Đại học Bắc Kinh).
Ảnh: Biểu đồ Quy mô Dân số Trung Quốc trong lịch sử” của Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Bắc Kinh