Tôi chẳng biết mình nên tin ai, hay thậm chí là bất kỳ người nào nữa. Những ngày qua là một chuỗi các sự kiện siêu thực, và tôi thấy bản thân mình nghi ngờ tất cả những chuyện xảy ra trong thời gian đó. Kể cả những suy nghĩ của chính mình.
Sau khi xuất viện, tôi bắt một chuyến taxi về lại nơi ở của mình, căn hộ số 403 cũ kỹ quen thuộc, và bắt đầu lần tắm rửa lâu nhất trong đời. Có lẽ đó là cảm giác tuyệt vời nhất tôi từng cảm thấy, còn giấc ngủ ngay sau đấy của tôi xếp suýt soát ở vị trí thứ hai. Tôi thiếp đi khá lâu, cái kiểu ngủ vùi thật say, thật sâu mà thấy như thể là sẽ kéo dài đến hết đời mình vậy. Lý do duy nhất đã đánh thức tôi là vì ai đó bấm chuông cửa. Hóa ra là Thám tử Andrews. Từ vẻ mặt tôi, cậu ta cũng trông ra là tôi đang dở giấc, và xin lỗi vì đã không thể gọi điện báo trước rằng sẽ đến.
Tôi vẫn phải nhớ mình cần mua một cái điện thoại mới khi có cơ hội.
Chúng tôi đi một đoạn ngắn đến bờ biển trong chiếc xe của thám tử, không có trò chuyện gì nhiều cả. Tôi kiểm tra lại hai lần là chúng tôi sẽ không đến hòn đảo một mình, và Andrews trấn an tôi rằng rất nhiều thám tử khác sẽ đón chúng tôi trên bến tàu. Đầu tiên thì cậu ta muốn đưa tôi lên chỗ cầu nghiêng hạ thủy tàu, phòng trường hợp nó xóc lại ký ức tôi theo kiểu gì đó. Tôi cũng nghi ngờ là để xem liệu chủ sở hữu con thuyền có phản ứng gì với sự hiện diện của tôi không, nhưng hai chúng tôi được tặng cho một bất ngờ khi bước vào trạm hạ thủy thuyền nho nhỏ.
Người đứng sau quầy là một cậu thanh niên trẻ, không hề giống gì như tôi đã miêu tả trong câu chuyện của mình. Hóa ra cậu ta là chủ sở hữu mới của nơi này.
Thanh niên đó giải thích rằng người chủ cũ, Willis, đã bán lại chỗ này với cái giá rẻ như bùn đất, cũng là lý do vì sao nó sang tên đổi chủ nhanh đến vậy. Cậu ta không có bất cứ thông tin nào về vị trí hiện tại của Willis, nhưng cậu ấy cũng biết rằng ông già đó đã bán công việc kinh doanh này đi sau khi vị thuyền trưởng, mà hình như là anh trai Willis, giục ông ta làm vậy. Cậu ta nói hai người họ trông khá lo lắng về điều gì đó. “Có thể chính là thứ mà họ đã trông thấy,” tôi bàn với Andrews. Thám tử gật đầu nhưng cũng không nói gì thêm. Trước khi rời đi, tôi có hỏi rằng Willis có bỏ lại thứ gì không, một cái điện thoại chẳng hạn, nhưng cậu thanh niên nói mình chẳng tìm được gì.
Chúng tôi lại ngồi vào con xe của thám tử và lái đến một bến tàu khác vài phút sau, hai viên thám tử khác gặp chúng tôi trên một con thuyền đang neo ở cảng. Một người tóc vàng tên là Thám tử Cooper. Người còn lại có tóc màu đỏ cùng một bộ râu, Thám tử Bennett. Tôi thấy nhẹ nhõm, theo một cách kỳ lạ, khi trông hai người đó không có vẻ gì quen thuộc cả. Tôi yêu cầu được xem phù hiệu của họ, hai người chìa ra cho tôi kiểm tra, và họ có vẻ thích thú khi tôi ngắm nghía họ thật kỹ càng. “Cam kết đầu năm nay của tôi là sẽ tin người ít hơn,” tôi đùa vậy. Họ không thấy buồn cười gì sất. Khi tôi hỏi vậy những người cảnh sát còn lại đâu, mấy người thám tử giải thích rằng họ đã ở trên đảo rồi. Chúng tôi lên con thuyền và hướng đến đó. Cooper là người nắm bánh lái.
Thời tiết thật đẹp, một trong những ngày đầu tiên của mùa Xuân, những ngày khiến cho mùa Đông đã qua cảm giác như một giấc mơ tồi tệ, nhưng trong sâu thẳm tâm trí tôi, đang thúc giục tôi, là giọng nói của sự kinh hãi. Nó không thể tin được rằng tôi sẽ quay lại hòn đảo chết bà đó. Dù tôi có cằn nhằn và phàn nàn như thế nào, mỗi khi được trao cho một cơ hội trở lại Đảo Twain thì tôi đã luôn chấp nhận nó. Có thể bởi một điều gì cứ vẫy gọi tôi. Không biết nữa. Trong lúc đó, những viên thám tử đang có một cuộc trao đổi lặng lẽ mà không có tôi, tiếng họ chìm nghỉm dưới tiếng động cơ và tiếng con thuyền vỗ sóng nước trên đại dương, và khi tôi nghiêng người vào gần hơn thì họ ngừng nói chuyện.
Khi đến gần hòn đảo, tôi bỗng thấy có một trái cầu đè chặt trong bụng mình, rồi một cảm giác đau nhói ở thái dương. Tôi để ý không có bất kỳ con thuyền nào neo ở bến cả. “Bình tĩnh nào,” Andrews bảo tôi. “Họ sẽ đến đây thôi.”
“Cậu đã thề với tôi là sẽ có một đống cớm đấy,” tôi nói.
“Họ còn có những vụ khác ngoài vụ này của anh. Giờ thì thư giãn đi. Chuyện giữ cho anh an toàn thì ba người bọn tôi thừa khả năng nhé.”
Tôi cãi với cậu ta thêm một lúc nữa, nhưng cuối cùng thì cũng chẳng còn gì để bàn. Chúng tôi đã ở hòn đảo rồi, đã quá muộn để về bờ. Tôi bảo rằng mình sẽ ở trên thuyền cho đến khi họ quay lại. Thám tử Cooper vừa cầm mấy chiếc chìa khóa vừa rời thuyền. Rồi Bennett cũng chỉ ra rằng tôi sẽ phải ở một mình nếu quyết định ở lại đây. Tôi không thích giọng điệu tên đó chút nào, nghe như kiểu người lớn hù trẻ con về ông Ba Bị ấy.
Andrews là người hiểu chuyện nhất. Cậu ta nói mình hiểu sự do dự của tôi, và bình thường thì họ sẽ không trông mong gì một nạn nhân sẽ quay lại hiện trường vụ án, nhưng mà vì tôi là nhân chứng, cũng là chứng cứ, duy nhất mà họ có. Nếu không có sự trợ giúp của tôi, bất kể điều gì đã xảy ra trên hòn đảo này sẽ mãi mãi là một bí ẩn. Và điều đó nghĩa là kẻ đã tấn công tôi sẽ được nhởn nhơ tự do, trong khi tôi thì sống trong nơm nớp lo sợ.
Cậu ta nói cũng đúng đó.
Điểm dừng chân đầu tiên của chúng tôi là văn phòng bảo vệ. Khi chúng tôi đến ngọn đồi nho nhỏ, và khi nhìn thấy hiện trạng của tòa nhà, tôi cảm thấy được xác thực ngay lập tức. Cánh cửa rõ ràng đã bị đập nát, một nửa của nó vẫn còn lủng lẳng trên khung gỗ, nửa còn lại vỡ tan thành những mảnh vụn vương khắp sàn nhà. Những viên thám tử bước vào trước tôi. Sau một giây chần chừ thì tôi cũng đi theo họ.
Có một mùi nồng nặc này trong không khí mà tôi không tài nào xác định được. Khung cảnh y hệt như tôi đã miêu tả, bàn làm việc và bàn ăn nằm ở hai bên nơi tôi từng dùng chúng để chặn cửa, nhưng chiếc máy tính tôi đã dùng để viết tất cả những bài đăng đã biến mất cùng với bộ radio hai chiều bị đập vỡ trong căn phòng còn lại. Khi tôi hỏi mấy người kia rằng có phải họ đã thu thập tang chứng không, họ trả lời rằng cả hai thứ đó đều không được tìm thấy. “Vậy thì chắc hẳn kẻ nào đã dọn dẹp trước khi cảnh sát đến,” tôi nói.
Cũng là lúc đấy mà tôi nhận ra mùi trong không khí là gì- thuốc tẩy.
“Có người đã kì cọ hòn đảo này cực kỳ kĩ càng,” Thám tử Bennett nói. Và cậu ta cũng nói thêm, rằng bất kì kẻ nào đã làm điều đó thì hắn cũng bỏ sót vài giọt máu, và chỉ về hướng họ đã tìm thấy những dấu máu đó, ở trên cao phía một bức tường đằng xa. Phải là một cuộc tấn công tàn bạo lắm thì mới khiến cho máu bắn xa đến vậy. Tôi có hỏi chỗ máu đó đã được kiểm tra chưa, để xem nó thuộc về ai, và Bennett trả lời họ vẫn đang đợi kết quả từ phòng thí nghiệm.
“Cảm giác là máu của tôi lắm,” tôi nói.
“Cũng phải một ít trong đó đấy,” cậu ta trả lời. Tôi để ý Bennett trao đổi một cái nhìn không thoải mái với những người khác, như thể cậu ta lỡ tiết lộ nhiều quá, và ngay lập tức tôi nhận ra: bản thân mình có phải một nghi phạm không nhỉ? Từ góc độ của họ thì tôi là một gã được tìm thấy khi trên người toàn máu, và đang phê thuốc, và với một mớ câu chuyện về những ánh sáng kì lạ và nhiều xác chết biến mất. Một gã da trắng độc thân, lại còn mới thất nghiệp gần đây nữa. Chúa ơi, tôi khớp vãi chưởng. Nhưng họ thực sự nghĩ tôi sẽ quay lại nếu mình đã gây ra những chuyện này à? Cơ mà, ừ thì tên sát nhân được cho rằng sẽ thường trở lại hiện trường vụ án.
Khi so với cả khu nghiên cứu chính, việc phòng bảo vệ đã được dọn dẹp sạch sẽ chỉ trông như một cái tang chứng vật chứng nho nhỏ. Từng cái hộp một, từng cái máy một, từng cái dụng cụ một, đều đã biến mất khỏi tòa nhà, được đóng gói cẩn thận và đem đi kể từ lần tôi ở đó. Những kí ức tốt nhất của tôi về hòn đảo vẫn còn nguyên vẹn, nhưng tôi chỉ có các hình ảnh rời rạc trong trí óc về những nơi này đã trông và cảm giác chúng như thế nào, và thứ bây giờ tôi đang chứng kiến chẳng trùng khớp gì cả. Nơi mà trước đây từng là một khu nghiên cứu đang hoạt động, giờ chúng tôi lại đứng trong một cái vỏ rỗng, một tòa nhà trống không trên một hòn đảo vắng lặng. Bằng một cách nào đó, nó thậm chí còn trở nên ma quái hơn khi không có những chiếc hộp đầy đầu lâu và xương vụn. Có khi là hiu quạnh hơn.
Chúng tôi đi một vòng quanh hòn đảo từ chỗ đó. Mấy người thám tử để tôi dẫn đường- không phải là đi đằng trước, nếu mà bạn có thắc mắc vậy, chỉ là để chỉ hướng mọi người nên đi thôi- và tôi gắng hết sức để đoán và cảm nhận con đường từ khu chứa xác này sang khu chứa xác khác. Ở mỗi khu, chúng tôi chỉ tìm thấy những mảng cỏ chết khô, bẹp dí, đánh dấu nơi một cái xác đã từng được đặt ra. Một vài vết gợi tôi nhớ lại những thiên thần tuyết. Ngay cả những cái lồng dây đã từng bao quanh hầu hết thi thể cũng không còn sót lại, và tôi càng ngày càng ngạc nhiên bởi sự kỹ càng của khâu dọn dẹp chỗ này.
Cuối cùng thì tôi cũng dẫn họ về nơi lẽ ra sẽ có cửa để vào hang động, nhưng khi mà sóng triều chưa xuống thì không thể trông thấy nó được. Với sự hỗ trợ của họ, tôi đã rà soát khu vực quanh đó để tìm dấu hiệu của lối vào thứ hai, thứ tôi vẫn còn chắc chắn là đang ở gần đấy, nhưng sau gần một tiếng đồng hồ, chúng tôi không bới lên được gì ngoài vài cục pin rỉ sét và một chai rượu rỗng không.
“Chẳng có gì ở đây cả,” Thám tử Bennett nói có vẻ khó chịu. Cooper và Andrews đều nhìn và đợi tôi nói một điều gì đó. Tôi nhún vai và bảo họ hãy quay lại khi thủy triều xuống thấp hơn. Không nói thêm một lời, ba viên thám tử quay đầu và bước dần về phía con thuyền.
Khi tôi theo họ băng qua khu rừng, cơn đau đầu từng lắng xuống, âm ỉ nơi thái dương tôi khi đến gần hòn đảo, và vẫn luôn ở đó từ lúc ấy, lan rộng qua phía sau hộp sọ tôi cho đến khi nó trở thành một cơn đau nửa đầu. Đối với tôi, một người không dễ bị đau nửa đầu như vậy, đó là một cảm giác dữ dội- những tia sáng mặt trời và âm thanh đại dương trở nên quá sức chịu đựng. Ngay cả những mùi khác dường như cũng nồng nặc hơn, mà trên hòn đảo này thì điều đó chẳng tốt đẹp gì cả. Hai mắt của tôi ngấn nước, cảm tưởng như chúng sắp trồi ra hỏi hốc mắt. Tôi dừng bước lại và gắng sức dìm cơn đau xuống, nhưng những thám tử đằng trước tôi hoàn toàn không hay gì.
Khi đứng đó ôm chặt lấy bụng dạ mình buồn nôn, tôi thấy có người di chuyển giữa những thân cây. Rõ rành rành như ban ngày là một bóng người. Ở trong rừng. Phía xa xa.
Tôi hét lên với mọi người, nhưng từ góc độ của họ thì không thể thấy hắn. Tôi thật phát ngán với toàn bộ sự tình này rồi. Chẳng quan tâm nó nghe có vẻ điên rồ đến mức nào, nhưng tôi đã phi hết tốc lực vào rừng, đuổi theo người đàn ông mình đã trông thấy đằng xa. Các thám tử chạy đằng sau khi tôi len lỏi giữa những tán cây, gào lên gọi kẻ lạ mắt kia hãy dừng lại. Chỉ đến khi tôi lại thoáng thấy hắn một lần nữa, hắn bỗng nhiên vụt mất, khuất dạng chỉ sau một đám cây.
Dù có chạy nhanh đến đâu, tôi cũng không thể bắt kịp được hắn thêm lần nào nữa, và cuối cùng những viên thám tử hét lên yêu cầu tôi dừng lại. Họ tìm kiếm những dấu chân trên nền đất nhưng chỉ tìm thấy của tôi. Không một ai trong số họ nhìn thấy hắn cả, và tôi cũng không biết được liệu họ có tin thật hay chỉ đang chế nhạo tôi. Bản mô tả gã đó mà tôi đưa cho họ thật mơ hồ, và tôi quyết định là cứ để vậy đi.
Trên con thuyền trở lại bờ, tôi thoáng thấy một vết bớt trên cổ Thám tử Andrews, chỉ ngay sau tai cậu ta. Nghe có vẻ kỳ lạ thật, nhưng cảnh tượng đó truyền một cảm giác deja vu mãnh liệt dọc sống lưng tôi, và ngay khắc đó tôi biết rằng không phải mình lần đầu nhận ra người này lúc ở bệnh viện, rằng tôi đã phải gặp Andrews từ trước đó rồi.
“Vậy chuyện gì đã xảy ra với những viên cảnh sát khác nhỉ,” tôi hỏi. “Những người đáng lẽ sẽ phải gặp chúng ta ngoài này ấy.”
Cooper hét lớn lên vì tiếng ồn động cơ thuyền. “Thì chúng tôi phải dụ được anh ra hòn đảo bằng một cách nào đó chứ.”
Sau khi lên bờ, Cooper và Bennett rời đi theo hướng riêng của họ, còn Andrews thì đưa tôi về lại căn hộ của mình. Trước khi cậu ta kịp lái đi, tôi thò vào cửa sổ xe và hỏi cậu và những người kia làm việc ở phân khu nào. “Ba mươi mốt,” Andrews trả lời.
Tôi thoáng im lặng trong một giây. “Mày đúng là toàn thứ nhảm cứt đấy, nhỉ?”
Không đáp thêm một câu, Andrews nổ máy và phóng đi. Đáng ra tôi phải viết lại biển sổ chiếc xe đó, nhưng tôi đã không nghĩ ra điều ấy cho đến khi quá muộn. Khi vào trong nhà, tôi tra cứu phân khu 31 và gọi cho họ bằng điện thoại của hàng xóm. Chẳng ngạc nhiên gì mấy, không một ai với những cái tên đó làm việc cho cảnh sát cả.
Càng nghĩ về điều này, tôi càng nhận ra người lạ mặt tôi đã trông thấy trên đảo. Thực ra, tôi có một cái nhìn rõ ràng hơn mình đã khai báo, nhưng tôi không định tiết lộ với bọn “thám tử” đó trừ khi tôi muốn dành thêm chút thời gian trong một trại tâm thần.
Người đàn ông trong khu rừng- chính là tôi.
_____________________
Tôi thực sự khó hiểu và vẫn muốn biết vụ cái xác đàn bà đứng dậy và đi dạo là như nào… Với mỗi tập mới thì câu chuyện này ngày càng có nhiều câu hỏi hơn là lời giải đáp.
>u/[deleted] (12 points)
Tôi nghĩ cái xác phụ nữ chưa bao giờ di chuyển, dù sao cũng không phải tự nó làm vậy. Có thể nói rằng Terri, ả thực tập sinh, là người phụ nữ OP trông thấy khi đi loanh quanh trên đảo, ả ta đã di chuyển cái xác đấy để ‘chỉnh sửa William’. Tôi nghĩ Terri là người OP đã thấy và cũng là người để lại dấu bàn tay đen khắp mọi nơi.
>>u/bloodstreamcity (3 points)
Đó cũng là điều tôi nghĩ. (T/N: Đây là comment của tác giả)
_____________________
Translator’s note: ‘Thám tử’ Andrews là giả mạo. Tôi đuổi theo chính ‘tôi'(?).