Các bạn sẽ nghĩ tôi bị điên nếu bảo rằng mình sắp quay lại Đảo Twain dù chỉ một đêm nữa. Thừa nhận vậy cũng không sao đâu, các bạn nói đúng mà. Nhưng tôi cũng phải thú nhận một thứ: tôi mắc chứng tò mò. Tôi không thể không xía mũi vào những vụ kỳ lạ. Có khi đó chính là thứ hấp dẫn tôi với nghề bảo vệ ngay từ ban đầu, cái ý tưởng lùng sục và tìm ra rắc rối. Dường như ngần ấy tiếng đồng hồ ngồi sau bàn giấy chẳng thể xóa sạch nó đi.
Cũng tốt khi lần này họ yêu cầu tôi gác thay một ca ban ngày- Eric báo nghỉ do bị ốm- và tôi thấy như này an toàn hơn nhiều so với một ca khác ở nghĩa địa. Có lẽ thật trẻ con khi cảm thấy như vậy, như thể tôi là một đứa con nít sợ sệt bóng tối, nhưng ít nhất thì ban ngày tôi có thể thấy thứ gì đang lao đến chỗ mình. Chưa kể rằng khi trời sáng tôi sẽ không bị ở một mình trên đảo. Thậm chí tôi còn có thể lấy được vài câu trả lời cho những gì đang diễn ra nếu thám thính xung quanh, nói chuyện với đúng người và hỏi những câu phù hợp.
Dù sao cũng phải nói cho rõ, tôi cũng đã hỏi cơ quan tuyển dụng rằng có việc làm khác không. Bất cứ công việc nào. Mấy bạn thấy được chuyện này đang đi đến đâu rồi đấy.
Có thể là do mặt trời ấm áp và biết rõ bản thân sẽ rời khỏi đảo khi nó lặn mất, hoặc bởi con dao bỏ túi đang nằm trong túi sau của mình, nhưng tôi cảm thấy hơi liều lĩnh một chút khi giao điện thoại cho tên quản lý bến tàu. Tôi hỏi hắn liệu có bất kỳ câu chuyện địa phương thú vị nào về Đảo Twain không. Ban đầu thì hắn nhún vai, “Chốn nào chẳng có những giai thoại của riêng nó,” nhưng rồi lại nói tiếp, có một thứ, một câu chuyện hắn từng nghe nhiều hơn một lần, từ nhiều người hàng xóm mà có thể tôi sẽ quan tâm. Tên quản lý nói người ta đã trông thấy những ánh sáng lạ trên hòn đảo, từ bờ biển hoặc từ những con tàu đi ngang qua. Nói câu chuyện thật đáng thất vọng thì vẫn còn nhẹ nhàng chán. Tôi bảo hắn rằng rất có thể chỉ là ánh đèn pin của bảo vệ soi khi đang đi tuần.
Tên quản lý gật đầu, “Có lẽ cậu nói đúng đấy.” Khi đang rời đi, tôi nghe hắn lầm bầm, “Và khá ngu khi sử dụng đèn pin màu đỏ nữa.”
Ngoài bến tàu có Terri, Bernard và một phụ tá khác đang chờ tôi sẵn trên thuyền. Thuyền trưởng cũng đã ngồi trên đó và đang đọc một quyển tạp chí. Khi thấy tôi, ông ta buông nó xuống và bắt đầu nổ động cơ. Terri cười và nói xin chào, người phụ tá kia, một anh chàng nặng ký tên Miguel, cũng làm vậy. Và Bernard vẫn như mọi khi, một tên rùng rợn chẳng nói lấy một lời. Đó là cho đến khi chúng tôi đi đến vùng nước rộng mở và Terri bắt đầu vài câu chuyện phiếm.
“Vậy là anh không thể bỏ việc hử,” cô ấy hỏi.
“Nói gì được đây? Rõ ràng là tôi cần mớ tiền lương này để sống.”
Cô ấy bật cười. Tôi cảm thấy khá tự hào về bản thân, cho đến khi Bernard chen vào. “Đó còn chẳng phải tất cả những gì anh ta được nhận lại,” cậu ta nói. Tôi không thể chịu đựng thằng cha này lâu hơn nữa. Tôi nghiêng người qua Terri và hỏi vấn đề của cậu ta là cái quái gì vậy. “Là bọn gác ca đêm thôi,” Bernard trả lời lại.
“Ngó xung quanh đi nào,” tôi bảo cậu ta. “Tôi đang trực một ca ban ngày đấy.”
“Anh vẫn là một thằng gác đêm.” Bernard thậm chí còn không muốn nhìn thẳng vào mắt tôi. Thật muốn đấm vào cái bản mặt đó, nhưng Terri nhập cuộc và thắc mắc chuyện gì đang quấy rầy cậu ta. Rồi Bernard bắt đầu lải nhải mấy thứ vớ vẩn về fetish và sự mê cuồng với cái chết và còn cả vài thứ khác cậu ta biết hơi bị chi tiết quá. Miguel chỉ lắc đầu cười những điều Bernard đang nói, còn Terri, thật đáng khen ngợi, cố hết sức để trấn an thằng nhóc. Đến khi chúng tôi cập bến, trông Bernard đã bình tĩnh hơn nhưng vẫn không thèm nhìn hướng tôi, vậy cũng được thôi. Trước khi đi mất, nó quay lại và bảo, “Cứ làm bất cứ thứ gì anh muốn với mấy cái thi thể. Chỉ là tránh xa tôi ra.”
Terri hẳn đã thấy tôi sắp sửa nhảy bổ vào Bernard. Cô ấy đến trước mặt và kéo tôi theo hướng khác, nói rằng mình cần bê giúp vài cái hộp nặng. Rõ ràng là đang làm mủi lòng cái tôi của tôi. Và tôi quyết định bỏ qua. Thằng nhãi đần độn kia sẽ không phá hỏng cơ hội của tôi với một cô gái dễ thương. Làm như vậy thì sẽ là cho nó thắng cuộc mất.
Khi hai chúng tôi đến tòa nhà nghiên cứu chính, tôi chợt nhận ra Tiến sĩ Christianson không đi cùng mọi người. Terri giải thích rằng ông ấy thường tới một mình, bất cứ lúc nào tiến sĩ quyết định bắt đầu ngày mới của ổng, và tôi nhớ lại cuộc trò chuyện với tiến sĩ đêm hôm nọ về việc lỡ mất chuyến tàu cuối cùng. “Nếu tôi gọi một chuyến nữa, thì một chuyến nữa sẽ đến,” ông ta đã nói vậy. Terri bật cười, bảo nghe thật giống điều một gã siêu cố chấp như tiến sĩ sẽ nói. Từng phút trôi qua, tôi càng ngày càng thích cô ấy. Chúng tôi vào trong khu nghiên cứu và đi tiếp xuống hành lang.
“Xin lỗi anh về Bernard,” Terri nói. “Đôi khi nghề pháp y thu hút mấy tên lập dị.”
“Phải chăng đó cũng là điều đưa cô đến với nó,” tôi đùa.
“Thực ra là vì cái chết của anh tôi.”
“Oh. Vãi.” tôi cảm thấy mặt mình đỏ lên vì câu đùa tệ hại.
“Không sao,” cô ấy xoa tay. “Chúng tôi từng rất thân thiết. Anh ấy hiến tặng cơ thể mình cho khoa học và cuối cùng nó được đem đến một cơ sở như nơi này. Khi xem xét về Nhân chủng học Pháp y, tôi thấy mình như bị hấp dẫn. Tôi đi thẳng đến đại học và thay đổi chuyên ngành. Dù tôi biết rằng nghe nó nực cười, nhưng ở đây tôi cảm thấy mình được gần gũi với anh ấy.”
Kỳ lạ thật, nhưng tôi đã từng nghe nhiều cách tồi tệ hơn để đối phó với nỗi đau khổ. Khi bố mất, tháng đầu tiên tôi uống say đến mức gần như chẳng nhớ được gì trừ những thứ mọi người kể lại. Thậm chí tôi còn ngồi trong tù một đêm vì đã đấm gãy mũi một tên bartender, nhưng đó là câu chuyện kể cho dịp khác nhé. Terri và tôi đi qua cánh cửa cuối hành lang, nơi có một tấm biển ghi đơn giản: “Phòng Làm Sạch.”
Căn phòng có kích thước chừng một căn bếp nhỏ, có đủ loại dụng cụ và các hóa chất dùng để làm sạch những bộ xương sau khi chúng hoàn thành nhiệm vụ của mình ở trang trại. Terri giới thiệu cho tôi cả quá trình, giải thích rằng sau khi những bộ hài cốt được làm sạch, chúng sẽ được đưa đến một căn phòng khác để lưu trữ hoặc chuyển đi, tùy theo đích đến cuối cùng là gì. “Nhưng anh sẽ không cần vào trong đó đâu,” cô ấy nói, “chỉ là một mớ xương thôi.”
“Tên của người gác đêm từng làm việc trước tôi là gì nhỉ,” tôi bất ngờ hỏi không báo trước. Terri có vẻ ngạc nhiên, nhưng một thoáng suy nghĩ và cô ấy trả lời tên anh ta là Greg. “Là anh chàng có hình xăm à?” tôi chỉ vào cẳng tay mình.
“Yeah. Sao anh lại biết vậy?” Tôi trả lời rằng có một tấm hình chụp Greg treo trong phòng bảo vệ. Terri gật đầu nhớ lại bức ảnh. “Thật đáng tiếc là anh ấy rời đi mất.” Tôi có hỏi vì sao, và cô ấy đáp, “Thì… trông ảnh cũng kiểu đáng yêu.”
Ngay khi đó, cửa phòng bật mở, Tiến sĩ Christianson xuất hiện ở ngưỡng cửa. Dường như ông ta khó chịu với sự hiện diện của tôi ở đây. “Tôi nghĩ anh sẽ thấy rằng chẳng có ai trong này cần bảo vệ cả,” Tiến sĩ nói, rồi ngó về phía Terri. Cô ấy xin lỗi và giải thích mình cần sự hỗ trợ của tôi để chuyển vài cái thùng. Ông ta lầm bầm gì đó về ‘cơ bắp bọn đàn bà’ và sắp sửa rời đi. “Tôi đang định hỏi,” tôi ngăn ông ta lại, “ông có biết ai sẽ gác thay ca đêm cho tôi không?”
“Theo như tôi biết thì vẫn là anh.” Vậy nghĩa là một ca gác kép rồi. Không một ai nói gì về điều này. “Có vấn đề gì à?”
“Tôi đoán là mình có thể tận dụng khoản tiền trả thêm.”
“Miễn là nó phù hợp với nhu cầu của anh.” Khi ông ta đi khuất, tôi quay sang Terri. “Tôi đoán nghề pháp y cũng thu hút mấy gã khốn nạn nữa.”
Mặt cô ấy đanh lại. Terri nói, “Ông ấy là cha tôi.”
Hàm của tôi chắc phải rơi xuống tận sàn nhà. Rồi cô ấy nói, “Đùa chút ha.” Chúng tôi đều bật cười, một cảm giác thật tuyệt vời sau những căng thẳng và rùng rợn của tuần trước. Tôi hỏi Terri những cái hộp cần chuyển giúp nằm ở đâu. “Hộp nào ấy nhỉ?” Cô ấy mỉm cười với tôi trên đường ra ngoài. Lần đầu tiên, tôi thấy vui vì đã trở lại hòn đảo.
Tôi cầm một cái bộ đàm từ văn phòng và bắt đầu đi tuần, mất trên dưới gì đó khoảng một tiếng đồng hồ để quét trọn một vòng chu vi quanh đảo. Mọi thứ đều ổn, tất nhiên, và dưới ánh sáng ban ngày, đó gần giống như một khoảng thời gian thú vị, một chuyến đi dạo nhanh, bình thường, trên bãi bờ lởm chởm đá. Trên điểm cao nhất của hòn đảo, tôi cố nhìn xuống dưới tìm cửa hang động, nhưng mức sóng vẫn quá cao. Tôi bắt đầu nghĩ rằng Eric bịa thứ đó ra. Trên đường đi tôi chỉ thấy một thi thể, nằm trong một cái lồng đặt gần bờ biển. Chắc hẳn để nghiên cứu ảnh hưởng của nước biển hay gì đó như thế. Tôi ngừng quan sát cái xác khi để ý thấy thứ đang chui ra từ tai nó.
Khi về đến phòng bảo vệ, tôi bước vào trong và nhìn quanh. Không có gì khác thường cả. Yên tĩnh thật. Ngay khi đang chuẩn bị ngồi xuống, tôi liếc về hướng khu vực nghỉ giải lao. Tấm bảng ghim. Bức hình chụp. Greg gượng gạo cười trước ống kính máy ảnh. Greg, người có thể vẫn còn đang trên hòn đảo này, nhưng không còn cười nữa. Chẳng còn sống nữa. Tôi nhớ ra vì sao mình lại ở đây, lý do thực sự bản thân đang ở đây, và lần này không phải vì tiền lương.
Tôi viết tất cả những điều này phòng trường hợp mình không quay lại, để các bạn biết rằng, ngay bây giờ tôi sẽ đi ra ngoài, và tôi sẽ kiếm tìm vài câu trả lời. Điểm dừng chân đầu tiên- căn phòng lưu trữ đó.
_____________________
OP đang cố chăn quả booty đó.
_____________________
Translator’s note: Một căn phòng lưu trữ những bộ xương sau khi được rửa sạch.