Trang Trại Xác – Chapter 2

Họ đề nghị tôi quay lại.

Ba ngày trước là thời điểm tôi được đón ở bến tàu, kiệt sức và đói rã rời. Thuyền trưởng tìm thấy tôi với một cây đèn cạn pin trong một tay, tay kia thì cầm một cái radio đang tắt. Lần này tôi lại là người không nói gì nhiều, tôi chỉ rời thuyền, lái xe về nhà trong cơn lờ đờ và ngủ gục trên giường. Tôi dành nhiều thời gian nghĩ về thứ mình đã trải qua trên Đảo Twain, những lúc còn lại dùng để nộp đơn cho những công việc khác, chẳng có ai gọi lại cả. Tôi có quay lại và đọc những gì bản thân đã viết. Giờ nghe nó thật nực cười, như cơn mê sảng của một gã hoang cuồng, nhất là ngay sau khi tôi tỉnh dậy. Càng nghĩ về chuyện đó khiến tôi càng thấy nó không có thực.

Khi tôi đang ứng tuyển cho những công việc bảo vệ khác, tên quản lý văn phòng việc làm tạm thời có điện cho tôi, báo rằng Cơ sở Nhân chủng học Pháp y đã liên hệ và họ muốn thuê tôi một lần nữa. Chẳng do dự chút nào, tôi bảo hắn mình không hứng thú gì chuyện quay lại hòn đảo. Giữa cuộc nói chuyện, tôi có cảm ơn hắn vì đã không cảnh báo tôi về bản chất công việc nghiên cứu của bên kia. Gã thề thốt mình không biết gì hết – tôi chả tin – và hắn nói trước khi tôi kịp đưa ra quyết định, rằng họ sẵn sàng tăng mức lương lên gần 30%. “Chắc là bên đó chán việc dẫn mấy chuyến tham quan miễn phí rồi, nếu anh hiểu ý tôi,” hắn nói.

Thật khó để tranh luận với mức chi trả đó khi mà bạn thất nghiệp. Vẫn còn cả mớ vấn đề về cái xác biến mất, tiếng cười rợn người, và dấu vết chết chóc trong văn phòng bảo vệ, ba lý do rành rành để không bao giờ quay lại nữa. Tôi chẳng thể hỏi hắn chính xác về tất cả mọi chuyện mà không nghe như bị thần kinh, nên tôi đành dùng câu tốt nhất có thể.

“Thế họ có phàn nàn gì về lần trước không,” tôi đã nói. Như cách tôi nghĩ, nếu một cái xác đứng dậy và bỏ đi dưới sự giám sát của tôi, họ có thể nghĩ rằng tôi có liên quan theo cách nào đó.

“Nếu có bất kỳ lời phàn nàn nào,” tên quản lý trả lời, “tôi sẽ chẳng tin là bây giờ hai ta còn đang bàn công việc.”

Dĩ nhiên, đúng như hắn nói. Mọi thứ đang ngày càng giống như những gì tôi vẫn hằng mơ. Khoảng một giờ trước tôi có kiểm tra tài khoản ngân hàng, thứ đang dần trở nên vô vọng, và lúc này tại đây tôi đang nói không với một khoản lương cao ngất ngưởng. Tôi nhớ lại lời khuyên của Eric, rằng công việc này sẽ dễ dàng nhất trần đời miễn là ta xoay xở được khoản tâm lý. Rồi tôi nghĩ về bố mình, người đã làm việc trong lĩnh vực xây dựng cao tầng những ba mươi năm, và một lần ông đã tự lái xe trở lại công trường sau khi khâu ngón tay cái để hoàn thành nốt ngày công.

Chúa phù hộ, tôi đã quay lại nơi đó.

Một suy nghĩ chợt đến khi thuyền trưởng đưa tôi sang hòn đảo: có lẽ nào cái xác đã thực sự biến mất và họ đang nhử tôi quay lại để tra hỏi, hoặc thậm chí là bắt quả tang tôi tái phạm? Liệu họ đã báo cảnh sát nhưng vẫn chưa có đủ chứng cứ buộc tội tôi chăng? Thấy trong lòng mình như chùng xuống, tôi nhìn sang hướng ông già đứng bánh lái. Ông ta nhìn lại tôi với cái vẻ buồn cười này trong ánh mắt. Chắc là có gì đó. Cũng có khi chẳng là gì. Giờ quá muộn để quay đầu rồi.

Khi cập bến, trời hãy còn sáng giúp tôi rời bến tàu và đi vào đảo, và thật thú vị là không có ai đến đón tiếp cả. Tôi cho đấy là một tín hiệu tốt và bắt đầu truy dấu Eric. Chẳng tốn nhiều thời gian – cậu ta đang ngồi máy tính trong phòng bảo vệ.

“Tôi chẳng nghĩ sẽ còn gặp lại anh cơ,” Eric cười. Hình như ông thuyền trưởng đã kể với mọi người chuyện tôi nôn nóng rời đi ngày hôm nọ như thế nào. Hơi xấu hổ chút, nhưng công bằng mà nói này, chẳng một ai chuẩn bị trước cho tôi về cái của nợ tôi phải tiếp nhận kia. Eric thấy buồn cười nhưng tôi có thể nói cậu ta hiểu nguyên cớ của tôi từ đâu ra. Nhân khi cả hai đang bàn về chủ đề này, tôi hỏi Eric có bao giờ nghe được gì kì quặc trên hòn đảo, đặc biệt là ca gác đêm không. Cậu ta hỏi lại tôi cái gì lạ cơ. “Tôi không biết. Đồ vật di chuyển. Và những giọng nói chẳng hạn.”

Eric móc một lon soda từ tủ lạnh. “Uh oh. Đừng có bảo tôi anh là người mê tín đấy nhé. Như thế thì làm việc ở đây không có ‘bay’ đâu.” Khi cậu ta nốc lon soda ừng ực, tôi đảm bảo với Eric rằng mình là người theo lý trí, nhưng cậu ấy dường như còn nghi ngờ. Theo như Eric biết, mặc dù Đảo Twain là một hòn đảo, vẫn có khá nhiều động vật sống ở đây. Một số thì bơi đến trong khi có những loài vào đảo qua thuyền hoặc rác thải trôi nổi. “Chúng tôi từng đề nghị Tiến sĩ Christianson về vấn đề kiểm soát bọn động vật, nhưng ông ấy bảo làm vậy sẽ gây mất cân bằng tự nhiên rất quan trọng cho số liệu của họ, hay là gì gì như thế. Tôi nghĩ đơn giản là Tiến sĩ chẳng muốn chi cái khoản đấy bằng tiền trợ cấp của ổng.”

Đây không phải lần đầu tiên tôi cảm thấy không có ai ưa ông tiến sĩ. Sau khi tôi tán gẫu xong với Eric, cậu ta ném cái lon rỗng của mình đi và nói rằng sẽ đi tuần một vòng cuối trước khi về nhà. Tôi nghĩ Eric đã tưởng rằng tôi sẽ ở trong văn phòng, như bản thân cậu ấy mỗi khi có thể, nên chuyện tôi đi ra ngoài theo hướng ngược lại khiến Eric bất ngờ. Tôi muốn làm quen với hòn đảo và các thực tập sinh khác hơn. Dựa trên ánh mắt Eric nhìn tôi, cậu ta chắc hẳn nghĩ tôi bị thần kinh khi làm vậy.

Lý do thực sự cho chuyến tản bộ của tôi còn điên rồ hơn Eric có thể ngờ tới.

Không có ai đang làm việc tại khu đất trống chính nên tôi tận dụng sự riêng tư để đến kiểm tra cái lồng chứa thi thể đã mất tích, hoặc là nơi tôi đã tự thuyết phục bản thân như vậy, đến lúc này tôi chẳng biết phải nghĩ gì nữa. Cho đến bây giờ thì lần quay lại này khá yên ổn, và tôi không tin bản thân sẽ được đón tiếp nhẹ nhàng như thế nếu họ nghi ngờ tôi làm gì đó kinh tởm, trộm mộ chẳng hạn. Vậy nên, như các bạn có thể tưởng tượng được, tôi cực kỳ bối rối khi nhìn thấy người phụ nữ trong cái lồng. Ở đó, hệt như bà ta chưa từng biến mất. Lúc này, cái xác đã bớt giống một chiếc túi căng phồng toàn dòi, nó nhiều da và xương xẩu hơn lần cuối tôi thấy. Thân xác thối rữa của người phụ nữ khiến tôi thoải mái một cách kỳ lạ.

Khi quay đi khỏi cái xác, tôi nhìn thấy cậu thực tập sinh Bernard đứng phía bên kia khu đất trống, một tay kẹp sổ bìa cứng và tay còn lại cầm thước đo, cậu ta đang kiểm tra một thi thể. Tôi không rõ Bernard đã đứng đó bao lâu, nhưng khi tôi xoay người rời đi, cậu ta ném một ánh nhìn khó chịu đến mức tôi không thể lờ đi được. Thay vì quay lại văn phòng như đã định, tôi đi về phía cậu ta và bắt đầu cuộc trò chuyện. Vài thứ gì đó vô nghĩa về thời tiết mà cậu ta giữ im lặng suốt. Khi tôi nói xong phần của mình, Bernard thay đổi chủ đề theo một cách chẳng-tế-nhị-chút-nào.

Cậu ta hỏi tôi hứng thú với mẫu đàn bà như nào, và theo cách Bernard nói, tôi hiểu ra ngay hàm ý cậu ta là gì, và nhân tiện thì nó tởm thật. Tôi chẳng biết trả lời sao để nghe không bị mất trí, nên bèn đáp lại rằng lần trước tôi nghe thấy tiếng động phát ra ở đây, nhưng khi đến khu đất kiểm tra thì không có ai cả. Nhưng thứ cậu ta nói tiếp theo khiến chân tôi lạnh toát.

“Anh có di chuyển bà ta không?”

Mất khoảng một giây. Tôi mới nói không, không, chắc chắn là không, và sẽ không có lý do nào để làm thế cả, và tôi hỏi vì sao cậu ta lại thắc mắc như vậy. Ban đầu, Bernard không muốn trả lời, nhưng sau khi tôi hỏi lại vài lần thì cậu ta nói những bức ảnh không khớp với nhau từ ngày này sang ngày hôm sau. Đặc biệt là vị trí thi thể.

Tôi hỏi liệu có thể do động vật chăng, những con mà Eric đã kể là sống trên đảo hoặc là cưỡi rác trôi đến. Như thể tôi là đứa con nít hỏi một câu đần thối trong lớp học, cậu ta dùng chân gõ gõ vào cái lồng bên cạnh và nhìn tôi, “mục đích của mấy cái này đấy.” “Vậy thì khí gas thì sao,” tôi lại thắc mắc tiếp, những thứ xảy ra khi chúng ta phân hủy, chẳng phải chúng có thể di chuyển cơ thể ư? Bernard đảm bảo với tôi, một cách thái độ, rằng bản thân cậu ta biết vết xô lệch nào là tự nhiên và vết nào không phải vậy. “Cái xác đó chắc chắn đã bị dịch chuyển. Nếu anh có làm thì tốt nhất là tự thú đi.” Tôi có thể thấy cậu ta sẽ không đào sâu vào chuyện này, nên tôi bảo rằng đó chẳng phải tôi, nếu cậu ta không tin thì cũng chả là vấn đề gì của mình, và tôi đi về văn phòng bảo vệ. Nhưng sẽ là nói dối nếu tôi bảo cuộc trò chuyện đó không khiến tôi lo lắng đến mãi lâu sau.

Vào thời điểm Eric trở về sau vòng tuần tra cuối cùng, tôi đang chìm vào một nơi tăm tối. Tâm trí tôi quay cuồng và tôi bực chính bản thân vì đã trở lại hòn đảo. Tôi rất suy nghĩ việc bỏ cuộc và bắt một cuốc về trên chiếc thuyền muộn, và chắc hẳn Eric cũng biết vậy vì cậu ta hành xử cực kỳ nhẹ nhàng và đùa cợt để kéo tâm trạng trong phòng bảo vệ lên. Tôi nghi rằng vì tôi thì ít mà vì Eric thì nhiều, rồi cậu ta cũng chứng minh điều đó khi tình cờ tiết lộ mình có vài kế hoạch lớn tối nay mà sẽ tan tành nếu tôi không xuất hiện.

Đến lúc đấy, Terri thò đầu vào vài phút để chào và hỏi Eric một câu về hệ thống báo động ở khu nghiên cứu chính. Trước khi rời đi, cô ấy nói rằng thật mừng khi được gặp lại tôi. Đợi lúc Terri đi mất, Eric khúc khích cười và nói chuyện cô ấy có hứng với tôi hiển nhiên đến mức nào. Tôi bảo vậy thật nhảm cức quá. “Thế anh nghĩ vì sao họ gọi anh quay lại,” cậu ta hỏi.

“Thì mấy người chán dẫn tour miễn phí rồi,” tôi trích lại.

“Họ có thể hỏi đến nhiều người khác cơ. Và cổ thì cứ nhắc tên anh phải đến 5 lần trong vài ba ngày qua. Rằng anh có ‘ánh mắt nhân hậu’. Vậy thì họ sẽ đem ai quay lại nào?”

Tôi không đặt mấy niềm tin vào những gì Eric nói, nhưng điều đó cũng đỡ hơn nghĩ về nhiều thứ khác. Cũng tốt là Terri khá đáng yêu- theo một cách làm-việc-với-xác-chết kì lạ. Ý nghĩ mời cô ấy hẹn hò làm tôi phân tâm một lúc. Rất nhanh chóng chỉ còn lại mình tôi. Con tàu đến rồi rời đi, và như một thằng ngu, tôi đã không bước lên nó.

Tôi dành giờ đồng hồ đầu tiên như đêm thứ nhất, lướt mạng, truy cập những chốn tiêu khiển tốn thời gian như thông thường, nhưng sau một hồi thì tôi ngẫm lại lời Bernard đã nói. Thực sự thì, nó khiến tôi phát điên lên. Cái thằng đó, thằng nhãi trông như con bọ đó, còn chẳng biết tôi, chẳng ở đây vào đêm ấy, và nó nghĩ bản thân có thể quăng mấy lời buộc tội kinh tưởi đó khắp nơi à. Chẳng mấy chốc tôi không còn chú ý vào màn hình- tôi đang bận nghĩ về việc dồn Bernard vào một trong những khu kín đáo trong rừng và cho nó hẳn một cái lý do có thật để buộc tội tôi. Tôi không phải một tên thích phát tiết bạo lực ra ngoài, nhưng đâu có nghĩa là tôi không thể làm vậy.

Một thứ gì cạnh cánh cửa thu hút sự chú ý của tôi. Gì đó chuyển động. Tôi quay đầu kịp lúc để nhìn thấy một bóng đen lướt qua cửa sổ, và lần thứ hai ngày hôm đó chân tôi lạnh cóng.

Bóng đen mang hình dáng mơ hồ của một người. Tôi thích thuật lại rằng mình đã nhảy bật ra khỏi ghế, mở tung cánh cửa và lao bổ vào tên xâm nhập như một nhân viên an ninh thực con mẹ nó thụ, nhưng thật ra tôi đã ngồi yên hết sức có thể. Tiếng cỏ loạt soạt, loạt soạt, tôi không nhích một thớ cơ nào đến khi tiếng động đó đi mất. Một phút sau tôi đứng ở cánh cửa mở, rọi đèn pin vào đêm tối. Và ngay cả khi không muốn, ngay cả khi ghét phải thừa nhận điều đó, tôi nhận ra mình đang bị vây quanh bởi mùi tử thi, thối rữa, nồng nặc, quen thuộc.

Bản năng đầu tiên của tôi- và cũng của bạn thôi- là lùi vào trong và khóa chặt cửa lại, điện cho cảnh sát và tự nhốt bản thân trong một cái tủ đựng chổi đến khi cứu viện tới. Nhưng tôi cũng biết rằng xác chết không thể đứng dậy và đi loanh quanh, những thứ đó ngoài phim ra thì đâu có thể. Tôi hình dung cha mình sẽ làm gì trong tình cảnh này nếu ông vẫn còn sống. Ông sẽ tìm ra thằng nào đang cợt nhả với mình và đút cái ngón tay cái được gắn lại vào mắt nó. Cái ngón chưa đứt của tôi sẽ phải làm việc đó thôi.

Màn đêm u ám khiến cả khu rừng nhuốm màu đen. Cách ánh đèn xuyên qua bóng tối khiến tôi nhớ lại phim tài liệu của những người thợ lặn đáy sâu. Tôi lặng lẽ di chuyển giữa rừng cây hướng về khu đất chính, gồng mình cố nghe cả những tiếng bước chân nhỏ nhất và bất cứ chuyển động nào ở trước mặt hoặc xung quanh, nhưng ngoài tiếng gió và biển thì chẳng có gì. Dù vậy, thứ khiến tôi vui mừng nhất chính là tìm thấy xác người phụ nữ vẫn còn trong lồng- ngay cả bây giờ cũng không thể tin được rằng điều này lại khiến tôi nhẹ nhõm- và sau khi kiểm tra nhanh, tôi phát hiện tất cả bạn cùng phòng của bà ta cũng ở trong lồng tương ứng của họ, ít nhất là với khu xác này. Lấy hết can đảm từ đó, tôi cuối cùng cũng quyết định sẽ đi tuần vài vòng hẳn hoi. Có một bí ẩn trên hòn đảo này, điều gì đó mà những người nhân viên không chịu tiết lộ với tôi, và đã đến lúc tôi tìm ra nó.

Tôi rẽ vào rừng theo một góc hẹp, nhắm đến một vị trí cụ thể trên bờ biển tôi đã quan sát cùng với Eric hôm trước, một điểm nằm ở nơi cao nhất của hòn đảo mà cậu ta từng nói có thể trông ra cửa một hang động nhỏ khi triều xuống. Bản thân nơi đó không có vấn đề gì miễn là tôi có một đích đến, nhưng điều gì đó về màn đêm âm u khiến tôi bối rối chẳng thể dùng mặt trăng hay sao trời làm mốc tham chiếu, và sau vài phút, tôi thấy mình quay ngược lại. Hóa ra hòn đảo này lớn hơn tôi nghĩ ban đầu, và rất dễ đi lạc trên đó. Tôi cố chỉnh đường đi của mình theo tiếng đại dương- chỉ cần tiếp tục hướng về tiếng những con sóng- nhưng được chừng một phút, tôi bước vào một khoảng đất trống và ngạc nhiên khi nhận ra đó là nơi tôi vừa rời đi vài phút trước.

Nếu là một gã thông minh hơn, tôi đã bảo kệ mẹ đi và quay về phòng bảo vệ, nhưng quyết tâm đi tìm câu trả lời khiến tôi quá cứng đầu để chọn lối thoát dễ dàng ấy. Thay vào đó, tôi quay người lại và một lần nữa, vẫn hướng đến vị trí đó trên bãi biển. Lần này tôi bẻ một góc còn hẹp hơn trước. Không đời nào tôi sẽ đi ngược về khu đất đó nữa.

Tin tốt là, tôi không bị quay lại chỗ đấy nữa. Tin xấu, tôi hoàn toàn mất phương hướng do màn đêm và cây rồi lại cây rồi lại cây cứ giống hệt nhau, không mất bao lâu cho đến khi tôi chẳng thể phân biệt biển ở hướng nào nữa, tiếng sóng vỗ vang đến từ tất cả mọi hướng. Hai lần tôi đi ngang qua lồng chứa xác nhưng không dừng lại đủ lâu để ngó xuống. Quay lưng lại với chúng trong bóng đêm đã đủ tệ rồi. Nghĩ về những ánh mắt chết chóc khiến bước chân tôi nhanh hơn. Nếu đã từng bị lạc, bạn sẽ biết cảm giác bực mình và tuyệt vọng nó mang lại, tự trách bản thân đã đần độn đến vậy. Đổ tội cho chính mình vì mọi sai lầm đã gây ra. Dù có tin vào Chúa hay không, bạn sẽ bắt đầu thề thốt những giao ước và lời hứa. “Nếu ngài giúp con ra khỏi đây, con hứa sẽ trở thành một người tốt hơn,” dù đã định sẽ hoàn toàn quên sạch những gì mình nói ngay thời điểm bạn được tìm thấy. Đóng lọ cảm xúc ấy và thả nó trên một hòn đảo đầy tử thi, và bạn sẽ bắt đầu hiểu những gì trôi qua trong đầu tôi trong khu rừng đó.

Khi đã rất tuyệt vọng, tôi bắt đầu để ý mùi thịt thối.

Với gió thổi qua những cái cây vô cùng thất thường, tôi không xác định nổi mùi hôi đến từ hướng nào. Không rõ được nó đang theo đuôi tôi, hay tôi đang bám theo nó. Một điều duy nhất: mùi thối đang dần nồng nặc hơn. Tôi chẳng biết mình nên đi chậm lại để tránh dẫm phải thứ gì đó, hay là chạy thoát khỏi ai đang bám theo sau. Dù muốn kiểm tra những cái cây đến mức nào, ánh đèn pin tôi vẫn dán chặt xuống đất, và tạ ơn Chúa nó đã như vậy. Không biết từ đâu ra, tôi đột nhiên bước ngang qua một cái xác, một cặp chân tím ngắt nhô lên từ mảng lá thường xuân xanh. Không có cờ đánh dấu, một điều tôi nghĩ là cực kỳ nguy hiểm, và ngay cả nếu từng có thì cái cờ cũng đã bị đổ và biến mất sau những dây leo dày đặc. Thi thể đó khá vạm vỡ, chắc chắn là của một người đàn ông, và khi đến gần hơn tôi nhìn thấy nó bị mất đầu và một bên tay. Ruồi bay vo ve trên lớp da tử thi vừa mới rạn vỡ. Âm thanh chúng rên rỉ chui xuống dưới da, vào trong màng nhĩ, và cảm giác buồn nôn dâng lên trong bụng tôi, mùi vị acid trào trong cổ họng.

Tôi nôn thốc sau một cái cây. Khi đang gập đôi người xuống và lau miệng cho sạch, tiếng một cành cây bị gãy bởi sức nặng vang lên từ đâu đó trong rừng, như thể ai đó đã giẫm lên nó. Tôi đứng thẳng người dậy và chĩa đèn pin về hướng tiếng bước chân đang đến gần, rồi gọi với ra, “Ai đó?” Ánh đèn pin soi thấy một đôi chân, không phải chân xác chết mà là hai bàn chân bước đi, mang giày, gắn liền với cẳng chân và quần và một cái áo khoác xám.

“Cậu đang làm ô nhiễm khu đất của tôi,” người đàn ông có râu nói. Tôi chẳng cần phải hỏi để xác minh danh tính- đây là Tiến sĩ Christianson. “Những người bảo vệ khác không tiến vào trong xa thế này.”

“Thú thật là tôi đang hơi lạc,” tôi thừa nhận với ông ta.

“Đây không phải chốn để làm vậy,” Tiến sĩ nói khi bước lại gần. Tôi hoàn toàn đồng ý. Tôi nói với ông ta rằng mình tưởng lúc này mọi người đã về nhà hết rồi. “Tôi là một trong số ít người may mắn được làm những thứ bản thân ưa thích,” Tiến sĩ trả lời. “Tôi bị đắm chìm trong công việc của mình.”

Tôi không rõ câu nói đó khiến mình cảm thấy thế nào về tiến sĩ nữa. Ở một mặt, tôi ngưỡng mộ đạo đức làm việc của ông ta, nhưng mặt còn lại thì một người đàn ông bị cuốn vào công việc như này không hẳn đem lại cảm giác thoải mái khi ở cạnh vào đêm tối lắm. “Ông lỡ mất con thuyền rồi,” tôi nói nhưng ông ta nhún vai. “Nếu tôi gọi một chuyến nữa, thì một chuyến nữa sẽ đến,” tiến sĩ giải thích.

“Có phải ông tình cờ ngang qua phòng bảo vệ một lúc trước không nhỉ?”

Mặt ông ta biến sắc. “Cậu đang theo dõi tôi à?” Tôi lắc đầu, không. “Cậu cứ việc lo liệu những kẻ cố gắng lên đảo. Còn tôi sẽ lo những gì họ làm khi ở đây.”

Tôi gật đầu. Chẳng tranh cãi được gì với một gã tồi như kia. Ông tiến sĩ chỉ tôi về hướng quay lại những tòa nhà. Tôi cảm ơn và chuẩn bị rời đi, nhưng giây cuối cùng lại quay người lại. Có một điều tôi cần phải biết. “Thực sự những thứ này không khiến ông bận tâm à,” tôi hỏi, nhưng biểu cảm ông ta đã trả lời hết mọi thứ. Một vẻ quá mệt mỏi với câu hỏi kiểu này, và không chỉ mỗi sự chán chường mà còn hơn thế.

“Tôi thấy chúng hấp dẫn, và tôi cũng không cần thiết phải thấy như vậy. Dữ liệu thu thập được ở đây sẽ cung cấp cho cảnh sát những bằng chứng họ cần để gô cổ vô số tên tội phạm.”

“Tôi đoán mình không thể lờ đi rằng họ từng là người sống. Cái xác đang nằm kia kìa,” tôi chỉ tay, “ông thậm chí có biết tên anh ta không?”

Tiến sĩ trông không còn muốn tấu hài cho tôi nữa. “Liệu có một chút cơ hội cỏn con nào, cậu biết vì sao tôi gọi cậu quay lại đây không,” ông ta hỏi. Tôi đáp chắc là do những người khác đều nói không. “Bởi vì tôi không thích trả lời những câu hỏi. Cũng lý do ngay từ đầu tôi đã chọn một hòn đảo làm nơi nghiên cứu.”

“Người ta nói không ai tự một mình mà sống được cả,” tôi đề nghị vậy vì chẳng nghĩ được điều gì khác để nói.

“‘Người ta’ lo ngại việc sẽ bị nổi tiếng.”

Điều ông ta vừa chia sẻ chắc chắn chẳng phải một vấn đề gì. Tôi cảm ơn Tiến sĩ giúp tôi tìm đường, nhưng khi đó ông ta đã không còn quan tâm tôi gì nữa và đang bận viết vài ghi chép khi nghiên cứu cỗ thi thể không đầu, tôi rời đi không nói thêm gì và tiến thẳng về hướng ông tiến sĩ đã chỉ. Sau đó thì tìm lối về đơn giản đến kinh ngạc. Chưa tới 20 phút sau tôi đã đang đứng trước cánh cửa mở toang của phòng bảo vệ. Giữa lúc bước vào trong, dù cố gắng thế nào tôi cũng không nhớ được mình đã để cửa mở hay không. Này, tôi có thể thề với các bạn rằng lúc ra ngoài mình đã đóng nó lại.

Tôi đi tiểu nhanh trong phòng tắm chật chội, rửa tay và lấy một lon soda từ tủ lạnh, nốc hết sạch trong ba ngụm dài. Rồi ném cái lon vào thùng rác nơi nó đoàn tụ với lon của Eric và vài cái khác nữa. Có vẻ những người này quan tâm việc tái chế con người hơn là với đồ nhôm thiếc.

Trong khu vực ăn có một tấm bảng ghim to bự với hàng đống thứ linh tinh gắn vào đó- giấy báo sức khỏe, nhiều tờ rơi cũ và vài trang báo cắt ra từ tạp chí y tế- nhưng thứ tôi chú ý đến là bức ảnh đó. Một trong những bức ảnh chân thật mọi người thích chụp nhau ở chỗ làm. Tóc rối tung rối bời và vẻ ngoài thừa cân một tý chỉ có ý nghĩa khi đó là một bức ảnh của bạn, nhỉ? Trông như mới được chụp gần đây, có khi là bằng một trong những chiếc máy kỹ thuật số họ dùng để chụp xác chết và in ra từ máy in văn phòng, nhưng tôi chẳng thể nhận ra người đàn ông trong ảnh. Anh ta có thể trạng khá tốt, bắp chuột căng phồng lên trong tay áo ngắn của đồng phục bảo vệ. Trên cẳng tay phải có hình xăm một con rắn xanh lục cuốn quanh trái táo màu đỏ.

Tôi nhớ lại thi thể nằm giữa rừng cây, nơi Tiến sĩ Christianson và tôi đã trò chuyện. Không có lồng chứa, không cờ đánh dấu, tương đối vạm vỡ, cụt mất phần đầu cùng với một trong hai tay.

Thiếu một cánh tay. Tay phải.

Tôi khóa chặt cửa lại cho an toàn.

_____________________

Ôi vãi.

Tôi biết là từ đầu ông đã đừng nên quay lại cái đảo chết bầm rồi mà, bạn ơi, và nếu còn quay lại thêm lần nữa thì ông bạn đáng lĩnh đủ đấy.

Tôi nghĩ là, sau khi ca gác hết, ông về nhà, liên lạc với Terri, mời cổ đi ăn tối và tìm hiểu tất cả những gì cô ấy biết. Hỏi về mấy thứ rùng rợn đang xảy ra — người ta luôn luôn biết những khía cạnh đáng sợ của mấy công việc kì dị.

>u/Drawberry (70 points)

Khồng bạn ơi, Terri chính là mồi nhử D:

_____________________

u/Charmed1one (12 points)

Điên rồ thật, tôi không nghĩ bố ông sẽ giữ công việc đó! Lương hậu hĩnh để làm gì nếu mà ông nằm lại ở trang trại! Đừng nói với họ ông là người hiến tạng nếu ông đúng là vậy và NÀY… LÀM ƠN, vì Chúa, đừng đi dạo loanh quanh nơi đó. Nếu có thấy một bóng đen, cứ cho nó là một cái cây đung đua hoặc gì đó đi. CHỈ CẦN Ở BÊN TRONG THÔI!

_____________________

Translator’s note: Một thi thể giống người nhân viên trước đây. Terri có vẻ thân thiện đấy.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *