TẠI SAO KHOA HỌC CẬN ĐẠI KHÔNG NẢY SINH TẠI TRUNG QUỐC ?

(Lưu ý: tất cả những bài dưới đây đều do các học giả Trung Quốc viết tư phê phán chính dân tộc mình)

—————–

** BÀI 1: [VÌ SAO NGƯỜI TRUNG QUỐC NGU THẾ] **

Ai cũng biết văn minh Trung Hoa có đóng góp quá nhỏ (xét về tỷ lệ số dân toàn thế giới) vào thành tựu của văn minh nhân loại, về KH tự nhiên cũng như KH xã hội.

Tìm ra căn nguyên của tình trạng này là một vấn đề có tầm quan trọng đối với Trung Quốc (TQ), từng được một vài học giả phương Tây, hoặc phương Tây gốc Hoa bàn luận, nhưng dường như giới học giả TQ lại thiếu quan tâm, có lẽ vì họ không muốn nói tới các mặt tiêu cực của thể chế chính trị-văn hóa nước họ.

Trong tình hình đó, cuốn “Vì sao người TQ ngu thế?” của triết gia TQ LiMing (Lê Minh, xuất bản 2003) thu hút được sự chú ý của dư luận. Dưới đây là bài nói của LiMing tại ĐH Bắc Kinh giới thiệu về nội dung sách trên.

Trong cuốn “Người Trung Quốc xấu xí”, ông Bá Dương đã xúc phạm mạnh đồng bào TQ, và bị họ chửi cho mất mặt, giờ đây tôi lại lấy thuyết “ngu dốt” ra để gây sự lần nữa thì chẳng phải là tự chuốc lấy quả đắng đấy ư? Thực ra không phải tôi thích gây sự, mà là do cổ họng tôi bị hóc xương, không lấy xương ra thì khó chịu.

Lại còn một lý do nữa là TQ từ xưa tới nay có quá nhiều văn nhân tự khoe mình thông minh, làm cho những người TQ bình thường lâu nay cũng thường xuyên rơi vào đám sương mù dầy đặc tự cho mình là thông minh, mọi người đều mơ giấc mơ người TQ “thông minh”, dường như người nước ta đúng là đặc biệt có gene thông minh. Tiếc thay, mơ mộng rốt cuộc chỉ là mơ mộng.

Trên thực tế, người TQ có đúng là thông minh như thế không? Song le thông minh là gì, ngu dốt là gì?

Tôi cho rằng đó chỉ là kết luận rút ra được từ sự so sánh với các chủng người khác. Quan điểm của tôi là: trong sự so sánh đó, chủng người nào có thể cung cấp cho nền văn minh của nhân loại những nhà tư tưởng lớn, nhà khoa học lớn, nhà công nghệ lớn, nghệ sĩ lớn đẳng cấp thế giới, thì chủng loại người ấy là thông minh. Ngược lại, là chủng loại người ngu dốt.

Nói cách khác, qua so sánh, chủng loại người nào giỏi hơn về khám phá các quy luật mới (về tự nhiên, xã hội, tâm lý loài người), về phát minh công nghệ mới (tư duy, công cụ, máy móc), sáng tạo các tri thức mới (về khoa học, nghệ thuật), thì thuộc về chủng loại người thông minh. Ngược lại chủng loại người nào không giỏi, thậm chí không có thể khám phá quy luật mới, phát minh công nghệ mới, sáng tạo tri thức mới thì là không thông minh.

Dĩ nhiên, thông minh hoặc không thông minh, ngu dốt hoặc không ngu dốt đều mãi mãi ở trong quá trình biến động. Vì thế nên nói không có chủng loại người nào có số phận an bài là thông minh, cũng không có ai số phạn an bài là ngu dốt.

Nhưng nếu mọi người tự mình kiên trì mãi mãi không biến đổi thì “ngu dốt” cũng có thể trở thành một loại số phận. Tôi vô cùng lo ngại người TQ trong tình hình trường kỳ kiên trì giữ một truyền thống lịch sử “bất biến” sẽ thực sự có số phận như vậy.

Người TQ có thực sự thông minh không? Nếu người TQ thực sự thông minh như thế thì trong dòng sông lịch sử dài dằng dặc rốt cuộc họ đã cống hiến cho nền văn minh nhân loại được bao nhiêu nhà tư tưởng lớn, nhà khoa học lớn, nhà công nghệ lớn, nghệ sĩ lớn cấp thế giới, cung cấp được bao nhiêu khám phá lớn về quy luật, phát minh lớn về công nghệ và nghệ thuật, sáng tạo lớn về tri thức?

Nếu người TQ thực sự thông minh thì tại sao trong hơn 100 năm gần đây về nhân cách chính trị lại luôn luôn bị người nước khác bắt nạt, về kinh tế toàn là bị người ta bóc lột, về văn hóa học thuật toàn là bị người ta phân biệt đối xử?

Cái “thông minh” tự tâng bốc mình có thể biến thành thông minh thực sự được chăng? Rõ ràng không thông minh mà cứ tự tâng bốc mình thông minh, điều đó nên nói là ngu dốt thực sự.

Socrates ở thời cổ Hy Lạp được nhiều người cho là người thông minh nhất. Nhưng cái ông thích được tâng bốc hơn cả lại không phải là sự thông minh của mình, mà ông bao giờ cũng tự xưng: “Tôi biết sự vô tri của mình”. Cho nên Socrates là thủy tổ của phép biện chứng.

Ông hiểu sâu sắc thực chất của sự việc con người sở dĩ “thông minh” không phải là ở bản thân sự thông minh mà là ở chỗ thực sự nhận thức được sự vô tri của mình và biết cách vượt qua sự vô tri đó.

Trong lịch sử TQ có bao nhiêu sĩ đại phu và văn nhân dám công khai thừa nhận mình vô tri? Lại có bao nhiêu người đã nghiêm chỉnh khắc phục được sự vô tri của mình? Trên ý nghĩa này thực sự có thể nói chính là giới sĩ đại phu văn nhân trong các đời trước đã liên tục tạo ra sự ngu dốt của người TQ.

Sở dĩ hôm nay tôi phải lớn tiếng tuyên bố về sự “ngu dốt” của người TQ ngày xưa và ngày nay, thực ra là tôi vô cùng mong muốn người TQ trong tương lai sẽ trở thành “thông minh”.

Lịch sử mấy nghìn năm của TQ thực ra là lịch sử các sĩ đại phu văn nhân tự khoe “thông minh”. Các sĩ đại phu văn nhân “thông minh” trong các thời đại trước đây đã để lại cho người TQ ngày nay những trước tác có tới hàng tỷ chữ, trong đó nổi tiếng nhất có bộ Nhị thập tứ (25, 26, 27……) sử, Tư trị Thông giám, Vĩnh Lạc đại điển, Tứ khố toàn thư v.v…

Tiếc thay nếu dùng chiếc cân tri thức lý tính của con người hiện đại mà cân đo lượng văn bản lớn ấy thì phần tri thức của nó nhẹ tới mức làm người TQ cảm thấy đau khổ, chỉ đáng một phần vạn lượng tri thức ngày nay.

Có một điểm càng làm cho người ta không thể không ghi nhớ là nếu ai hiện nay vẫn vùi đầu vào núi văn bản ấy thì người đó sẽ được nhân bản thành một vị văn nhân tự khoe “thông minh’ của TQ. Các vị văn nhân tự khoe “thông minh’ của TQ trong các thời đại trước đây chính là được nhân bản từ núi thư tịch ấy.

Chính vì thế mà xã hội và lịch sử TQ cũng được nhân bản lặp đi lặp lại vô cùng giống như thời xưa, thậm chí như nhau. Chỉ trong một trăm năm gần đây mới có chút thay đổi, nhưng phần cốt lõi thì vẫn khá cứng – tức giới văn nhân TQ cho đến nay vẫn chưa nhận thấy sự vô tri của mình và tại sao lại vô tri, khắc phục sự vô tri như thế nào. Điều này đúng là thực sự ngu dốt.

Sự ngu dốt của người TQ trước hết, hoặc về căn bản, vẫn là sự ngu dốt của giới sĩ đại phu văn nhân nước này. Văn nhân các triều đại trước đây đã làm ra rất nhiều thư tịch có hàm lượng tri thức cực nhỏ – Kinh, Sử, Tử, Tập. Văn nhân TQ ngày nay vẫn tiếp tục làm ra rất nhiều văn bản loại ấy, tạo ra một lượng lớn rác rưởi văn tự trong toàn bộ nền văn minh TQ.

Trước kia Lỗ Tấn từng đau khổ cảnh báo thanh thiếu niên TQ cần bớt đọc thậm chí không đọc sách do văn nhân TQ viết. Qua đây có thể thấy ông sớm hiểu rõ tính nghiêm trọng tồn tại trong núi rác văn tự của nền văn minh TQ. Chính là sự nhân bản lặp lại núi rác rưởi văn tự ấy đã lấp kín con đường trí tuệ của bao nhiêu thế hệ người TQ.

Thứ đầu tiên được chế tạo với khối lượng lớn là sự ngu dốt của văn nhân TQ, sau đó nó khuếch đại thành sự ngu dốt của người TQ. Đó là số phận sự ngu dốt của người TQ trong hơn hai nghìn năm qua, nhất là trong 500 năm gần đây, đặc biệt là 200 năm nay.

** VÌ SAO NGƯỜI TRUNG QUỐC LÀ MỘT DÂN TỘC “VÔ HỌC”? **

Tác giả đã sống được ngót 60 tuổi, làm học giả trong khoảng 20 năm, cho tới nay mới chợt tỉnh ngộ biết rằng “học” là gì. Sự tỉnh ngộ ấy cũng làm cho tôi bỗng dưng rơi vào một nỗi buồn sâu sắc: người TQ (dân tộc Trung Hoa) có lịch sử văn minh 5 nghìn năm mà chẳng lưu lại bao nhiêu thứ thực sự đáng để hậu thế học tập.

Là một học giả hiện đại TQ tôi vô cùng đau khổ phát hiện thấy người TQ chúng ta vốn dĩ căn bản chưa hiểu thế nào mới là “học” đích thực, do đó mà đến nỗi hầu như vô “học”.

Điều đó thực ra không khó kiểm chứng. Chỉ cần mời mọi người đọc lại một lượt toàn bộ các giáo trình tiểu học, trung học, đại học, viện nghiên cứu sinh, xem xem trong số những kiến thức đáng gọi là “học” dạy cho học sinh, rốt cuộc có bao nhiêu cái là do người TQ chúng ta khám phá, phát minh và sáng tạo.

Kết quả ra sao? Có thể nói, ngoại trừ những thứ như ngữ văn TQ, y dược TQ, sân khấu, thư, họa TQ – số lượng các kiến thức thổ sản ấy đã cực ít lại cũng khó có thể gọi là “học” mà chỉ có thể gọi là “thuật” – hầu như 9999 phần vạn các kiến thức còn lại đều là “sản phẩm du nhập qua đường biển” từ phương Tây.

Trong các lĩnh vực như thiên văn, địa chất, địa lý, toán học, vật lý, hóa học, sinh vật, tâm lý, triết học, khoa học xã hội (chính trị học, kinh tế học, xã hội học, pháp học, luân lý học, tân văn học….) thì người TQ chúng ta có truyền thống 5000 năm lịch sử lâu đời và chiếm tỷ lệ số dân nhiều nhất thế giới, rốt cuộc sáng tạo được môn học nào, khoa học nào? Chúng ta lại có ưu thế rõ rệt ở lĩnh vực nào vậy?

Thậm chí người Nhật cũng có thể cười chế nhạo chúng ta “Đôn Hoàng ở TQ nhưng Đôn Hoàng học thì lại ở Nhật”.

Bình tĩnh tự xét mình, nên thừa nhận là trong nền văn minh TQ 5000 năm, chúng ta có chữ “học” động từ (học hỏi, học ở chỗ hỏi, vậy hỏi ai? Hỏi trời, hỏi các đại nhân, hỏi các thánh nhân) mà không có chữ “học” danh từ (môn học, khoa học, những tri thức có năng lực sinh trưởng kéo dài, có sinh mạng riêng, tự làm thành hệ thống).

Nhìn tổng quát xưa nay, chúng ta có quan trắc thiên văn nhưng không có môn thiên văn học; có khảo sát địa lý (như Từ Hạ Khách du ký…) nhưng không có địa chất học, địa lý học; có trồng trọt thực vật, vận dụng thực vật nhưng không có thực vật học;

Có dạy thú và sử dụng động vật nhưng không có động vật học (phương pháp dùng trong các môn động vật học, thực vật học hiện nay vẫn dùng phương pháp phân loại hệ thống do người phương Tây phát minh);

Có tính toán con số cụ thể nhưng không có toán học trừu tượng; có Tứ đại phát minh nhưng không có vật lý học, hóa học; có kiến trúc cầu hầm nhà nhưng không có cơ học kiến trúc (vật liệu, công trình, kết cấu);

Thậm chí ta có ngôn ngữ, chữ viết, hội họa, âm nhạc, nhưng không có các môn học thành hệ thống như ngôn ngữ học, ngữ pháp học, tư từ học (Thuyết văn giải tự của Hứa Thận là một bộ tự điển, Mã thị văn thông là sản phẩm sau khi học ngữ pháp học của phương Tây, Lục thư pháp tắc chưa hình thành nguyên lý nghiêm chỉnh), mỹ thuật học (hội họa TQ không có thấu thị học, sắc thái học…), âm nhạc học (tuy rằng Chu Tải Dục đời Minh đầu tiên phát hiện thập nhị bình quân luật nhưng không làm nó trở thành hòa thanh học, âm luật học v.v…).

Sau hơn 20 năm làm học giả TQ, tới nay tôi mới bừng tỉnh dậy sau giấc mơ lớn: người TQ chúng ta tự xưng có nền văn minh truyền thống cổ xưa 5000 năm nhưng lại là một nền văn minh vô “học”.

Thưa đồng bào, chẳng lẽ quý vị không cảm nhận được điều đó ư?

Tứ đại phát minh của ta cố nhiên vĩ đại đấy nhưng đều chỉ là “thuật” mà thôi, hơn nữa lại là kỹ thuật khá thô sơ do tiền nhân thời xưa phát hiện và phát minh ra trong trải nghiệm cuộc sống trực tiếp tiếp xúc với thiên nhiên, những cái đó chưa được nâng lên thành “học”, cũng tức là chưa biến thành tư duy lý luận trừu tượng, thành học thuyết giải thích quy luật của sự vật.

Chẳng hạn thuốc súng trong Tứ đại phát minh , thành phần vật chất (nguyên tố) của nó là gì? Tính chất hóa học thế nào? Nguyên lý gây nổ của nó là gì? Lại nói kim chỉ nam trong Tứ đại phát minh vì sao nó mãi mãi chỉ về phương Nam (hoặc Bắc), rốt cuộc từ tính là gì?

Tất cả những cái đó đều phải chờ đến sau này khi người phương Tây tiến hành tư duy lý luận trừu tượng mới có được nhận thức. Trên tất cả các mặt, người TQ chúng ta hầu như chỉ dừng bước không tiến tiếp ở “thuật” mà thôi, vì thế nên thành tích trong lĩnh vực “học” cực kỳ nhỏ bé, quả thật có thể nói là vô “học”.

“Học” với ý nghĩa môn học, là gì vậy? Điều quan trọng là ở chỗ có lý luận trừu tượng cao độ, lý luận đó có thể giải thích hiện tượng đã có của sự vật, lại có thể mô tả một cách trừu tượng quy luật phát sinh của hiện tượng, vì thế không những có thể giải thích cụ thể sự vận hành thực tế lúc đó của sự vật mà còn có thể dự đoán trạng thái và sự biến đổi của sự vật trong tương lai, và được kiểm chứng hoặc chứng thực, hoặc chứng ngụy trong thực tiễn sau đó.

Một trong những tiền đề quan trọng nhất để xây dựng lý luận là phải nắm được quy luật tư duy logic cơ bản nhất. Hơn hai nghìn năm qua, nhất là 200 năm gần đây, nền giáo dục người TQ từ nhỏ được tiếp thụ chỉ có sự nhồi nhét Tứ thư Ngũ kinh, xưa nay chưa bao giờ biết logic là cái gì, sĩ đại phu-văn nhân còn như vậy, nói gì tới đông đảo dân chúng mù chữ.

Tại TQ còn có một nông nỗi đặc biệt làm đứt đoạn nền văn minh – đó là sự tách rời hầu như tuyệt đối giữa người lao động phổ thông với tầng lớp văn nhân biết đọc biết viết.

Những người TQ tiếp xúc với thiên nhiên, có kinh nghiệm lao động sản xuất hầu như toàn bộ đều không biết đọc biết viết, nhưng giới văn nhân TQ biết đọc biết viết lại hầu như căn bản không tiếp xúc với thiên nhiên. Nói khác đi nghĩa là cái đầu (tư duy) và cái tay (thực tiễn) của người TQ từa xưa tới nay hầu như bị tách rời tuyệt đối.

Cộng thêm tư duy của văn nhân TQ lại về căn bản thiếu mất sự huấn luyện của tính quy luật logic có ý thức, qua đó tạo nên sự tách rời tuyệt đối giữa “thuật” với “học”.

Do sự đứt rời song trùng ấy mà cho dù chưa xét tới còn có nhiều nhân tố khác vô cùng bất lợi như chế độ xã hội, tập tục… thì cũng đã ngăn trở vô cùng nghiêm trọng con đường phát triển trí tuệ của người TQ rồi. Đó dường như là số phận ngu dốt của người TQ trong mấy nghìn năm qua, nhất là trong 200 năm gần đây.

Sự tách rời giữa đầu óc với tay chân trong văn hóa truyền thống TQ, cũng tức là tách rời giữa tư duy và thực tiễn, cùng sự xa lạ giữa tư duy với logic của văn nhân TQ, đã tạo ra sự “học” của người TQ: hầu như duy nhất chỉ có cái “học” hỏi mà căn bản không có sự học hiểu, suy luận, giải thích, càng chưa thể nói tới sự học sáng tạo kiến trúc cấu tạo của tư duy logic trừu tượng.

Tứ thư Ngũ kinh và những thứ tràn ngập thành tai họa hơn nữa như Kinh, Sử, Tử, Tập, hầu như toàn bộ đều là sự học hỏi.

Văn hóa truyền thống TQ chỉ có sự học-hỏi, cộng thêm sự tách rời giữa đầu (tư duy) với tay (thực tiễn) và tiếp tục tạo ra sự đứt rời giữa “học” đích thực với “thuật” đã nói ở trên, – sự đứt rời song trùng ấy trên thực tế đã tạo nên sự vô “học” của người TQ từ xưa tới nay.

Trải qua quá trình Tây học truyền vào TQ trong 100 năm gần đây, TQ ngày nay cũng chỉ có cái “học” đi theo cái “học” của phương Tây mà về cơ bản chưa có cái “học” của bản thổ. Chính vì thế mà các “học” nhân của TQ ngày nay, trong quá trình học sẽ cảm thấy một cách nặng nề rằng mình đã mắc phải chứng “mất tiếng nói”.

Hầu như mọi từ ngữ, khái niệm về “học” đều du nhập từ phương Tây, mà không có liên quan chút nào với truyền thống văn hóa bản xứ của chúng ta. Miệng là của người TQ nhưng nội dung lời nói lại là những điều trải qua sự suy nghĩ nghiền ngẫm của người phương Tây.

Giấy viết, sách vở, truyền thông là phương tiện của bản xứ (song máy móc làm giấy, làm sách và thiết bị truyền thông cũng có thể của phương Tây), nhưng mọi đạo lý, quy phạm, quy tắc, quy luật… được sách báo truyền thông nói tới đều là những thứ người phương Tây phát hiện, phát minh và sáng tạo.

Trong tình hình này chúng ta còn có thể nói người TQ không “ngu dốt” ư? Nếu còn muốn tự khoe mình “thông minh” kiểu AQ thì chúng ta lại “thông minh” ở chỗ nào vậy?

Khi phân tích kỹ nền văn minh 5000 năm của TQ, có một môn tri thức có thể gọi là “học” được – đó là “Trung Y học” [Y học Trung Hoa]. Có lẽ cũng chỉ trong lĩnh vực “Trung Y học”, người TQ có thể để lại cho nhân loại một thứ duy nhất có thể gọi là “lý luận” của mình. Đó là lý luận “Âm dương ngũ hành”.

Tiếc thay tuy đây là thứ lý luận duy nhất trên thế giới có thể gọi là lý luận của người TQ, thuộc loại sánh được với lý luận logic của phương Tây, nhưng kể từ khi nó xuất hiện cách đây hơn 2000 năm, trong quãng thời gian dài dằng dặc sau đó, thứ lý luận ấy không hề có chút tiến triển nào.

Người TQ không hề nghĩ tới chuyện nên tiếp tục cải thiện, đẩy mạnh lý thuyết này, mà chỉ mù quáng sùng tín nó, làm theo nó. Cuối cùng lý thuyết ấy chẳng những chưa được cải thiện mà ngược lại ngày càng trở nên cũ rích, xơ cứng.

Cho tới nay số người TQ tiếp thụ lý luận logic của phương Tây ngày càng tăng lên, họ chỉ có thể coi thường thuyết Âm dương Ngũ hành, phỉ nhổ thuyết đó, thậm chí vu khống nó, coi là thứ lạc hậu, mê tín, thuộc cùng loại với thuật phù thủy.

Thực ra thuyết Âm dương Ngũ hành không phải là mê tín, không phải là thứ siêu nhiên có liên quan tới quỷ thần, thuật phù thủy. Tác giả cho rằng đó là logic sáng tạo độc đáo của người TQ, là logic giao thoa đối xứng và tuần hoàn tự xoay khác hẳn với logic đối xứng nhị nguyên luận của người phương Tây.

Trái với người đời, tác giả tuy thừa nhận sự “ngu dốt” hiện trạng và trong lịch sử của người TQ nhưng lại tỉnh táo nhận định thuyết Âm dương Ngũ hành là trí tuệ đặc hữu tổ tiên chúng ta để lại.

Đây là một di sản vĩ đại của nhân loại, trong thế kỷ XXI và sau này, nó có thể bổ khuyết cho logic đối xứng nhị nguyên luận phương Tây, qua đó thúc đẩy trí tuệ loài người nhảy vọt lên một mặt bằng mới trong thời đại mới.

Trên điểm này, tác giả kế thừa thuyết đó và độc lập sáng tạo ra lý luận Âm dương Tam hành. Chính là trên cơ sở thuyết logic mới này, tác giả dám tuyên bố trước thế giới là tới hôm nay, triết học phương Tây đã chết rồi.

………. Tác giả hy vọng người TQ sau thế kỷ XXI sẽ có thể trở nên thông minh như người phương Tây, thậm chí có thể còn thông minh hơn một chút.

Xin trở lại vấn đề trước đây, đi tìm nguồn gốc tại sao người TQ trong lịch sử lại vô “học”. Hiện nay có thể đã rất rõ ràng, đó là do trong lịch sử dài lâu, người TQ chưa tự mình sáng lập được một cơ sở có thể đặt nền móng cho tất cả mọi thứ “học”, cái cơ sở mà người phương Tây cận-hiện đại dựa vào để xây dựng hầu như tất cả mọi thứ “học” – Logic đối xứng nhị nguyên luận.

Nói rõ hơn, tức là logic hình thức, logic hình học, logic số lý, logic biện chứng … được từng bước hoàn thiện kể từ Aristotle, Euclid… Về bản chất, các logic này đều là logic tính đối xứng và nhị nguyên luận.

Triết học phương Tây từ Plato trở đi, từ bản thể luận tới nhận thức luận, thứ được các triết gia phương Tây ra sức hoàn thiện là bản thân phương pháp tư duy logic đối xứng nhị nguyên luận.

Chính là sự không ngừng hoàn thiện, phát triển của phương pháp logic phương Tây (từ triết học cổ đại đến triết học cổ đại) và sự kết hợp hữu cơ với phương pháp thực nghiệm có lựa chọn trong thời cận đại, đã sinh ra và xúc tiến các khoa “học” trên mọi lĩnh vực, mọi tầng nấc của phương Tây thời cận-hiện đại.

Hegel nói người TQ “không có triết học”. Chẳng may người TQ bị ông nói trúng. Đúng là người TQ không có triết học, mà điều đó lại ở chỗ người TQ không có logic – dĩ nhiên là nói logic đối xứng nhị nguyên luận.

Các văn nhân nhiều đời trước của chúng ta chưa từng bỏ công sức vào việc thăm dò quy luật của bản thân tư duy. Họ chỉ có duy nhất một phương pháp tư duy là độc đoán trực giác và trực giác độc đoán. Tư duy độc đoán trực giác ấy ngoài việc sản sinh những ý kiến đủ mọi màu sắc ra thì chẳng thể có được sự suy lý khuếch trương, kéo dài, càng không thể có sự kiến cấu sáng tạo trừu tượng.

Cho nên những tư liệu do các văn nhân TQ viết, ngoài việc có ý nghĩa chất đống to bằng hạt cát ra thì căn bản không thể có giá trị lý luận kiến cấu hữu cơ. Điều đó làm cho văn nhân chúng ta bao đời qua chưa bao giờ hiểu được lý luận là gì.

Về cơ bản, văn nhân TQ là một lũ người lùn văn hóa chẳng biết lý luận là cái gì, chỉ biết phát biểu ý kiến (ý khí chi kiến) mà thôi. Dựa vào những người ấy thì mãi mãi chẳng có thể xây đắp nên tòa lâu đài khoa học cận-hiện đại. Cho dù trên mặt sáng lập kỹ thuật và nghệ thuật thì phần lớn cũng chỉ có thể là những thứ bình thường, nông cạn, vô vị, thậm chí thấp hèn.

Chính vì thế mà đã hình thành một lịch sử hầu như vô “học” hơn hai nghìn năm qua của TQ, qua đó tạo ra sự ngu dốt trên thực chất của văn nhân TQ rồi mở rộng ra thành sự ngu dốt của người TQ (nhất là trong 200 năm gần đây).

Trong tất cả các nguyên nhân làm cho người TQ thời cận đại bị đày đọa, nguyên nhân căn bản nhất là sự ngu dốt của họ – tình trạng này dần dần tích tụ mà thành trong lịch sử dài lâu.

Do logic mà lạc hậu, nghèo khó. Do logic mà bị kẻ khác bắt nạt, bị đánh, bị kỳ thị. Chỉ có từ đó nhận thức được sự ngu dốt của mình và thoát ra khỏi sự ngu dốt ấy thì người TQ mới có thể thay đổi tất cả trong thế kỷ và thời đại mới.

Trên đây đã phân tích nguyên nhân tình trạng người TQ vô “học” , quy lại chủ yếu là hai điểm sau:

(1) Trong lịch sử lâu dài, những người TQ biết chữ thì không làm công việc sản xuất; ngược lại, những người làm sản xuất thì không biết chữ – điều này đã tạo nên sự hoàn toàn tách rời giữa tư duy với thực tiễn. Nói gọn lại, tức sự hoàn toàn tách rời giữa “bộ não” và “cánh tay” của người TQ.

(2) Trong lịch sử dài hơn 2000 năm, sự hoàn toàn tách rời giữa “bộ não” và “cánh tay”, giữa “học” và “thuật” của người TQ – sự tách rời song trùng này làm nên nguyên nhân lịch sử giải thích vì sao người chúng ta ngu dốt như thế. Vấn đề này phải được phân tích tiếp. Vì sao người TQ lại có căn nguyên lịch sử như thế? Đây chính là vấn đề cần được giải đáp trong phần sau.

— LI MING —

—————–

** BÀI 2: [KHÔNG CÓ TỰ DO TƯ TƯỞNG THÌ KHÔNG THỂ CÓ SÁNG TẠO] **

Trong nhiều năm qua, các học giả Trung Quốc (TQ) và thế giới đã và đang bàn cãi không ngớt về vấn đề tại sao khoa học kỹ thuật cận đại không ra đời tại TQ, vì sao văn minh Trung Hoa thời cổ từng dẫn đầu thế giới nhưng về sau lại tụt hậu. Có nhiều ý kiến khác nhau.

Ví dụ Dương Chấn Ninh cho rằng đó là do người TQ không có tư duy logic, hoặc tư duy truyền thống của họ không có phương pháp suy diễn. Lê Minh nói đó là do người TQ kém thông minh nhưng lại tự cho là thông minh…

Trong bài nói ngày 1/7/2017 tại lễ tốt nghiệp của các học viên Viện Nghiên cứu phát triển quốc gia thuộc Đại học Bắc Kinh, nhà kinh tế nổi tiếng TQ Trương Duy Nghênh công khai đưa ra quan điểm: do thể chế chính trị truyền thống của TQ luôn hạn chế sự tự do của dân chúng cho nên người TQ không thể có phát minh sáng tạo.

Bài nói của ông (được giới thiệu dưới đây) đã gây tiếng vang lớn trong dư luận TQ, người khen kẻ chê đều rất nhiều.

Chào các bạn sinh viên! Trước tiên tôi xin chúc mừng các bạn đã tốt nghiệp!

Tên gọi “Người Bắc Đại” [tức người của trường ĐH Bắc Kinh] là một vầng hào quang, cũng có nghĩa là trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm đối với dân tộc chịu bao khổ cực, chịu đủ mọi vùi dập của chúng ta.

Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh cổ nhất thế giới, đồng thời cũng là nền văn minh cổ xưa duy nhất được giữ gìn cho tới ngày nay. Trung Quốc thời cổ từng có thành tựu phát minh sáng tạo vẻ vang, có đóng góp quan trọng cho sự tiến bộ của nhân loại.

Nhưng trong 500 năm qua, về mặt phát minh sáng tạo thì Trung Quốc không có gì nổi trội đáng nói. Chúng ta hãy dùng con số để nói rõ điểm này.

Theo thống kê của học giả Jack Challoner ở Viện Bảo tàng Khoa học Anh Quốc, trong thời gian từ thời kỳ đồ đá cũ (2,5 triệu năm trước) cho đến năm 2008, đã có 1001 phát minh lớn làm thay đổi thế giới, trong đó Trung Quốc có 30 phát minh, chiếm 3%.

Toàn bộ 30 phát minh này đều xuất hiện trước năm 1500, chiếm 18,4% trong số 163 phát minh lớn trên toàn cầu trước năm 1500. Trong đó, phát minh cuối cùng là bàn chải đánh răng xuất hiện năm 1498, đây cũng là phát minh lớn duy nhất đời nhà Minh.

Trong hơn 500 năm sau năm 1500, toàn thế giới có 838 phát minh, trong đó không có phát minh nào đến từ Trung Quốc.

Kinh tế tăng trưởng bắt nguồn từ sự xuất hiện không ngừng các sản phẩm mới, công nghệ mới, ngành nghề mới. Xã hội truyền thống chỉ có vài ngành nghề như nông nghiệp, luyện kim, gốm sứ, thủ công nghệ, trong đó nông nghiệp chiếm vị trí chủ đạo tuyệt đối.

Hiện nay chúng ta có bao nhiêu ngành nghề? Xét theo tiêu chuẩn phân loại đa tầng quốc tế, chỉ riêng về sản phẩm xuất khẩu, số ngành được mã hóa bằng mã 2 chữ số có 97 ngành, mã 4 chữ số có 1222 ngành, mã 6 chữ số có 5053 ngành, và vẫn không ngừng tăng thêm.

Toàn bộ các ngành mới này đều được sáng tạo trong 300 năm qua, đều có thể tra cứu được nguồn gốc của mỗi sản phẩm mới này. Trong số rất nhiều ngành nghề mới, sản phẩm mới này không một ngành nghề mới hoặc sản phẩm quan trọng mới nào do người Trung Quốc phát minh cả!

Lấy ngành sản xuất xe hơi làm ví dụ. Ngành này được những người Đức như Karl Benz, Daimler và Maybach sáng lập vào khoảng giữa thập niên 1880, sau đó trải qua hàng loạt tiến bộ kỹ thuật, chỉ từ năm 1900 đến 1981 đã có hơn 600 sáng tạo đổi mới quan trọng (theo sách Industrial Renaissance của Albernathy, Clark và Kantrow, 1984).

Trung Quốc hiện nay là nước sản xuất xe hơi lớn nhất thế giới, nhưng nếu bạn viết một bộ lịch sử tiến bộ công nghệ của ngành chế tạo xe hơi, thì trong bảng những nhân vật được vinh danh sẽ có hàng nghìn nhà phát minh tên tuổi, trong đó có người Đức, người Pháp, người Anh, người Ý, người Mỹ, người Bỉ, người Thụy Điển, người Thụy Sĩ, người Nhật, nhưng sẽ không có người Trung Quốc!

Ngay cả trong những ngành nghề truyền thống mà Trung Quốc từng dẫn đầu từ trước thế kỷ XVII như luyện kim, gốm sứ, dệt may, những phát minh sáng tạo lớn xuất hiện trong 300 năm qua không có cái nào do người Trung Quốc làm ra.

Tôi cần đặc biệt nhấn mạnh sự khác nhau của thời gian trước và sau năm 1500. Trước năm 1500, thế giới chia thành những khu vực khác nhau, các khu vực này về cơ bản đều ở tình trạng khép kín với nhau, một kỹ thuật mới xuất hiện ở một nơi nào đó thì có ảnh hưởng rất nhỏ tới các nơi khác, và cống hiến của nó đối với toàn nhân loại rất hạn chế.

Ví dụ năm 105, ông Thái Luân [Cai Lun] thời Đông Hán phát minh ra kỹ thuật làm giấy, nhưng đến sau năm 751, kỹ thuật sản xuất giấy của Trung Quốc mới truyền tới thế giới các nước theo đạo Islam [Hồi giáo], lại qua 300 – 400 năm nữa mới truyền tới Tây Âu. Hồi tôi học tiểu học, khi luyện viết chữ còn phải viết trên bàn đất sét mà không viết trên giấy.

Nhưng sau năm 1500, toàn thế giới bắt đầu quá trình nhất thể hóa, chẳng những tốc độ phát minh kỹ thuật đã tăng nhanh, mà tốc độ truyền bá kỹ thuật cũng tăng lên, khi một kỹ thuật mới xuất hiện ở nơi này, nó sẽ nhanh chóng du nhập vào nơi khác, và sẽ có ảnh hưởng lớn đến nhân loại.

Ví dụ năm 1886 người Đức phát minh ra xe hơi, 15 năm sau, Pháp trở thành nước đứng đầu sản xuất xe hơi, lại qua 15 năm nữa, nước Mỹ thay Pháp trở thành cường quốc số một về sản xuất xe hơi. Đến năm 1930, tỷ lệ phổ cập xe hơi ở Mỹ đã lên đến 60%.

Vì thế sau năm 1500 mới thực sự có thể so sánh được trình độ sáng tạo đổi mới giữa các nước, ai giỏi ai kém rõ rành rành! Trung Quốc trong 500 năm gần đây không làm ra được một phát minh sáng tạo mới nào đáng ghi vào sử sách, điều đó có nghĩa là cống hiến của chúng ta cho sự tiến bộ của nhân loại gần như bắng số không! Kém xa tổ tiên ta!

Tôi còn muốn nhấn mạnh vấn đề quy mô số dân. Các nước có quy mô lớn hoặc nhỏ, nếu chỉ so sánh đơn giản giữa các nước với nhau về số lượng phát minh sáng tạo, xem ai nhiều ai ít thì sẽ dễ làm cho mọi người hiểu nhầm.

Nói về lý luận, dưới những điều kiện khác đã cho, một nước càng đông dân thì sáng tạo đổi mới sẽ càng nhiều, tiến bộ kỹ thuật sẽ càng nhanh. Hơn nữa, tỷ lệ sáng tạo đổi mới và tỷ lệ dân số có mối quan hệ số mũ [lũy thừa] với nhau, không phải đơn giản là mối quan hệ tỷ lệ đồng đẳng.

Ở đây có hai nguyên nhân: thứ nhất, về mặt sản xuất, tri thức có hiệu ứng kinh tế và hiệu ứng lan tràn quan trọng; thứ hai, về mặt sử dụng, tri thức không có tính loại trừ các sự vật khác.

Hơn 10 năm trước, nhà vật lý người Mỹ Geoffrey West phát hiện: trong đời sống đô thị, mối quan hệ giữa số lượng phát minh sáng tạo của con người với số lượng dân thì tuân theo quy luật lũy thừa với số mũ dương 5/4: Nếu đô thị A có số dân đông gấp 10 đô thị B thì tổng lượng phát minh sáng tạo của A sẽ bằng 10 lũy thừa 5/4 [tức101,25] tổng lượng phát minh sáng tạo của B, tức 17,8 lần [chính xác: 17,78279].

Qua đó có thể thấy, cống hiến về mặt phát minh sáng tạo của Trung Quốc cho thế giới quá ư không tỷ lệ với quy mô số dân của Trung Quốc.

Dân số Trung Quốc gấp 4 lần dân số Mỹ, 10 lần Nhật, 20 lần Anh Quốc, 165 lần Thụy Sĩ. Xét theo quy luật lũy thừa về sáng tạo tri thức nói trên, lẽ ra số lượng phát minh sáng tạo của Trung Quốc phải bằng 5,6 lần số lượng phát minh sáng tạo của Mỹ, 17,8 lần của Nhật, 42,3 lần của Anh và 591 lần của Thụy Sĩ.

Nhưng tình hình thực tế là trong 500 năm gần đây, cống hiến về mặt phát minh sáng tạo của Trung Quốc gần như bằng số không.

Chưa cần so sánh với Mỹ, Anh, mà chúng ta cũng chưa đạt được ngay cả con số lẻ của Thụy Sĩ. Người Thụy Sĩ phát minh ra kìm phẫu thuật, máy trợ thính điện tử, dây an toàn, công nghệ chỉnh hình, màn hình tinh thể lỏng v.v…

Công nghệ mực chống giả được Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc dùng để in đồng Nhân dân tệ là công nghệ của Thụy Sĩ, 60% -70% lượng bột mỳ của Trung Quốc được chế biến bằng máy móc của công ty Bühler (Thụy Sĩ).

Nguyên nhân do đâu vậy? Lẽ nào do gene của người Trung Quốc có vấn đề? Hiển nhiên không phải thế! Nếu không, chúng ta chẳng có cách nào giải thích được vì sao nền văn minh Trung Quốc cổ đại lại rực rỡ như thế.

Hiển nhiên đó là do thể chế và chế độ của Trung Quốc. Sức sáng tạo dựa vào tự do! Sự tự do về tư tưởng và tự do về hành động. Đặc điểm cơ bản của thể chế Trung Quốc là hạn chế sự tự do của con người, bóp chết tính sáng tạo, bóp chết tinh thần doanh nhân.

Thời đại người Trung Quốc có sức sáng tạo nhất là thời Xuân Thu Chiến Quốc và thời nhà Tống. Đây không phải là sự ngẫu nhiên. Hai thời đại này cũng là những thời đại người Trung Quốc được tự do nhất.

Trước năm 1500, phương Tây không sáng sủa, phương Đông tối tăm. Sau năm 1500, một số nước phương Tây trải qua tiến trình cải cách tôn giáo và phong trào Khai sáng đã dần dần tiến tới tự do và pháp trị, còn chúng ta lại giẫm chân tại chỗ, thậm chí đi ngược đường với họ.

Tôi cần phải nhấn mạnh, tự do là một chỉnh thể không thể chia cắt, khi tư tưởng không tự do thì hành động không thể tự do; khi ngôn luận không được tự do thì tư tưởng không thể tự do. Chỉ có tự do thì mới có sáng tạo. Tôi xin lấy một ví dụ để nói rõ điểm này.

Ngày nay việc rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiểu tiện đã trở thành thói quen của mọi người. Thế nhưng năm 1847, khi thầy thuốc nội khoa người Hungari Ignaz Semmelweis đề xuất thầy thuốc và y tá phải rửa tay trước khi tiếp xúc với sản phụ, ông đã xúc phạm các đồng nghiệp, vì thế mà bị mất việc và chết trong một nhà thương điên lúc 47 tuổi.

Quan điểm của Ignaz Semmelweis dựa trên sự quan sát về sốt hậu sản. Hồi ấy bệnh viện của ông có hai phòng đẻ, một phòng phục vụ người giàu, do các thầy thuốc và y tá chuyên ngành chăm sóc chu đáo, những thầy thuốc này luôn thay đổi công việc giữa đỡ đẻ và mổ xác; một phòng đẻ khác là để phục vụ người nghèo, do các bà đỡ phụ trách.

Semmelweis phát hiện tỷ lệ người giàu bị sốt hậu sản cao gấp 3 lần người nghèo. Ông cho rằng nguyên nhân là do thầy thuốc không rửa tay trước khi tiếp xúc với sản phụ. Nhưng quan điểm ấy của ông lại mâu thuẫn với lý luận khoa học đang thịnh hành thời đó, ngoài ra ông cũng không đưa ra được các chứng minh khoa học để thuyết minh cho phát hiện của mình.

Vậy thói quen vệ sinh của nhân loại đã thay đổi như thế nào? Việc này có liên quan tới phát minh ra máy in.

Thập niên năm 1440, doanh nhân Đức Johannes Gutenberg phát minh ra máy in sắp chữ bằng những con chữ rời. Nhờ có loại máy in này mà số lượng ấn phẩm tăng lên cực nhiều, việc đọc sách trở nên phổ biến, nhiều người bỗng phát hiện mắt họ vốn là bị “viễn thị” [?], thế là xuất hiện nhu cầu tăng bùng nổ về kính mắt.

100 năm sau khi phát minh máy in, tại châu Âu xuất hiện hàng nghìn nhà sản xuất kính mắt, và do đó dấy lên cuộc cách mạng về kỹ thuật quang học.

Năm 1590, cha con doanh nhân sản xuất kính mắt Janssen (Hà Lan) lắp vài mắt kính vào trong một cái ống và họ phát hiện những vật thể quan sát thấy qua những lớp kính này được phóng to lên, từ đó mà phát minh ra kính hiển vi. Nhà khoa học người Anh Robert Hook đã dùng kính hiển vi phát hiện ra tế bào, từ đó dẫn đến một cuộc cách mạng khoa học và y học.

Nhưng kính hiển vi thời kỳ đầu chưa có độ phân giải cao, cho đến thập niên 1870, nhà chế tạo kính mắt Carl Zeiss người Đức sản xuất ra loại kính hiển vi kiểu mới có cấu tạo dựa trên công thức toán học chính xác.

Chính là nhờ vào loại kính hiển vi này, bác sĩ người Đức Robert Koch và một số người khác đã phát hiện ra những con virus mà mắt người không nhìn thấy, qua đấy chứng minh quan điểm của bác sĩ người Hungari Ignaz Semmelweis là đúng đắn, và từ đó sáng lập ra lý thuyết vi sinh vật và vi khuẩn học.

Nhờ sự ra đời hai khoa học này mà mọi người đã dần dần thay đổi thói quen vệ sinh [rửa tay trước khi ăn và sau khi đi toa-let], và tuổi thọ của loài người cũng được kéo dài với biên độ lớn.

Chúng ta có thể giả thiết: nếu lúc đầu máy in Gutenberg bị cấm sử dụng, hoặc chỉ được phép in các ấn phẩm đã bị Giáo hội và chính quyền kiểm duyệt, thế thì việc đọc sách báo sẽ không được phổ cập, nhu cầu về kính mắt cũng sẽ không lớn như thế, kính hiển vi và kính viễn vọng cũng sẽ không được phát minh.

Khoa học vi sinh vật cũng không xuất hiện, chúng ta không được uống sữa bò thanh trùng, tuổi thọ dự tính của loài người cũng sẽ không tăng từ hơn 30 lên tới hơn 70 tuổi, càng không thể nào mơ tưởng đến chuyện thám hiểm không gian vũ trụ.

Trong hơn 30 năm qua, kinh tế Trung Quốc giành được những thành tựu cả thế giới quan tâm dõi theo. Những thành tựu ấy được xây dựng trên cơ sở khoa học kỹ thuật mà thế giới phương Tây tích lũy được trong 300 năm phát minh sáng tạo.

Mỗi một kỹ thuật và sản phẩm quan trọng giúp cho kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh đều do phương Tây phát minh chứ không phải do chúng ta phát minh. Chúng ta chỉ là kẻ ăn theo chứ không phải là kẻ sáng tạo đổi mới.

Chúng ta chỉ dựng một chái nhỏ trên tòa nhà lớn do người khác xây dựng. Chúng ta không có lý do để ngông cuồng tự cao tự đại!

Newton bỏ ra 30 năm để phát hiện lực vạn vật hấp dẫn, tôi mất 3 tháng để làm rõ định luật vạn vật hấp dẫn. Nếu tôi nói mình dùng thời gian 3 tháng để đi hết con đường 30 năm của Newton thì nhất định các bạn sẽ cảm thấy nực cười. Ngược lại, nếu tôi quay sang chê cười Newton, thế thì chỉ có thể cho thấy tôi quá vô tri!

Chúng ta thường nói Trung Quốc dùng 7% diện tích đất có thể trồng trọt để nuôi sống 20% số dân thế giới, nhưng chúng ta cần hỏi lại: Trung Quốc dùng cách nào để có thể làm được việc đó? Nói đơn giản, đó là sử dụng nhiều phân hóa học.

Quá nửa lượng đạm trong thực phẩm người Trung Quốc ăn là đến từ phân bón hóa học vô cơ [phân đạm]. Nếu không sử dụng phân hóa học thì một nửa số dân Trung Quốc sẽ chết đói.

Kỹ thuật sản xuất phân đạm đến từ đâu? Kỹ thuật này do nhà khoa học người Đức Fritz Habe và kỹ sư Carl Bosch của công ty BASF phát minh ra cách đây hơn 100 năm, chứ không phải do chúng ta phát minh.

Năm 1972, sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Nixon, Trung Quốc đã làm thương vụ đầu tiên với Mỹ: mua 13 hệ thống thiết bị sản xuất chất Ure tổng hợp quy mô lớn nhất, hiện đại nhất thế giới hồi ấy, trong đó có 8 hệ thống thiết bị của công ty Mỹ Kellogg.

Sau đây 50 năm, 100 năm nữa, khi viết lại lịch sử phát minh của thế giới, phải chăng Trung Quốc có thể thay đổi được tình trạng từng không có tên trong bộ sử đó? Trên mức độ rất lớn, câu trả lời phụ thuộc vào việc liệu chúng ta có thể nâng cao một cách bền vững mức độ tự do mà người Trung Quốc được hưởng hay không.

Bởi lẽ chỉ có tự do thì mới có thể làm cho tinh thần doanh nhân và sức sáng tạo của người Trung Quốc được phát huy đầy đủ, làm cho nước ta trở thành một quốc gia thuộc loại hình sáng tạo đổi mới.

Vì thế đẩy mạnh và bảo vệ tự do là trách nhiệm của mỗi một người quan tâm tới vận mệnh của Trung Quốc, lại càng là sứ mệnh của người Đại học Bắc Kinh! Không bảo vệ tự do thì không xứng với danh hiệu “người Bắc Đại”!

— Trương Duy —

—————–

— Nguyễn Hải Hoành dịch —

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *