NHẬT KÝ NỮ PHÁP Y – VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI TRONG GIA ĐÌNH (PHẦN 2/4)

2 giờ chiều ngày 7 tháng 6 năm 2013.

Hiện trường Hoàng Tứ Hải tử vong.

Phòng ngủ của Hoàng Tứ Hải khi còn sống chỉ cách phòng khách một cái nhà tắm. Cửa mấy phòng ngủ đều giống nhau, gỗ thật chạm trổ, chất gỗ cực tốt, vừa dày vừa nặng, mép trái cửa được khoét phân nửa, lồng kính mờ vào, dát viền vàng, trông cực kì sang trọng.

Bên trong phòng ngủ vô cùng rộng rãi, còn to hơn cả phòng khách nhà bình thường. Một chiếc giường lớn vàng son lộng lẫy hùng cứ ngay chính giữa, ghế sô-fa, tủ quần áo và tủ năm ngăn được kê sát tường, tất cả tay cầm đều có màu vàng kim, tỏa sáng rạng rỡ.

Thẩm Thư quan sát xung quanh phòng ngủ, nói: “Đã được quét dọn sạch sẽ rồi, việc khám xét lại hiện trường sẽ không còn nhiều ý nghĩa nữa.”

Tôi đáp: “Dù chưa được quét dọn thì việc khám xét lại hiện trường cũng vô cùng khó. Đây là nhà của nạn nhân, trên sàn và tường có lưu lại dấu vết vi lượng của người nhà ông ấy là điều hết sức bình thường. Thi thể lại không có xuất huyết điểm hay vết máu, rất khó để thu thập bằng chứng hữu hiệu.”

Thẩm Thư nhìn chằm chằm vào chiếc giường lớn hồi lâu, nói: “Hoàng Tứ Hải trước khi chết đã uống say bí tỉ, về nhà không cả cởi quần áo mà lên giường đi ngủ luôn. Hai ngày trước là Tam Phục, là ngày nóng nhất trong năm, nhưng trong phòng mở điều hòa, người nhà sẽ đắp chăn cho ông ta……”

Tôi biết, tuy Thẩm Thư đang đứng cạnh mình nói, nhưng thực ra là đang độc thoại, nên không tiếp lời, sợ làm ngắt mạch suy nghĩ của cậu ấy.

Thẩm Thư lại đi vào nhà vệ sinh ở phòng ngủ, tự nói chuyện với cái thùng rác, bồn tắm và đống bàn chải, kem đánh răng ở dưới gương nhà tắm một hồi, lần này nói không rõ, nên tôi chẳng nghe ra được cậu ta đang lẩm bẩm cái gì.

Thẩm Thư đi đi lại lại trong phòng, miệng như đang nhẩm đọc, ai không biết mà nhìn thấy bộ dạng này, lại tưởng bệnh thần kinh của cậu ấy tái phát.

Thẩm Thư đột nhiên quay ngoắt ra ngoài, đóng chặt cửa, để lại tôi một mình trong phòng. Tôi không hiểu chuyện gì, gọi lớn: “Này, cậu làm cái gì thế? Trong phòng vẫn còn người đó!”

Phút chốc, Thẩm Thư lại mở cửa ra, vời tôi đến, chỉ tay vào miếng kính mờ viền vàng được gắn trên cửa, nói: “Nhìn giúp tôi xem đây là gì.”

Tôi căng mắt nhìn chăm chú vào vị trí ngón tay cậu ấy, thấp thoáng thấy được một vết mờ hình vuông dài khoảng 2cm, màu đậm hơn chút so với phần còn lại của kính, giống như lớp bụi bám trên mặt kính vậy. Tôi chưa kịp phản ứng ra, nhìn Thẩm Thư một cách khó hiểu.

Lúc này, Lâm Mai Đình và mấy người khác cũng đi lên lầu, đứng cách mấy mét để quan sát nhất cử nhất động của Thẩm Thư.

Thẩm Thư ra hiệu cho Lâm Mai Đình lại gần, hỏi: “Có phải Hoàng Tứ Hải có thói quen bật đèn khi ngủ không?” Lâm Mai Đình ngơ ngác nói: “Sao cậu biết? Đó có thể coi là tật xấu của ông ấy, cực kỳ sợ bóng tối, khi đi ngủ bắt buộc phải mở đèn, tôi không chịu nổi cái thói quen này của ông ấy, kết hôn được mấy năm liền ra ngủ riêng.”

Thẩm Thư gật đầu, nói: “Cái đêm ông ấy mất, đèn trong phòng có bật không?” Lâm Mai Đình đáp: “Đèn giường bật, ông ấy dù có uống say cũng phải bật đèn ngủ cho bằng được, ai mà tắt đèn đi, nửa đêm ông ấy tỉnh dậy nhất định sẽ la lối om sòm cho xem.”

Thẩm Thư dường như đang suy nghĩ, nói: “Nhà bác có băng dính trong suốt không?” Lâm Mai Đình ngớ người đáp: “Lâu lắm không dùng rồi, hình như không có.” Một người đàn ông trẻ tuổi đứng nghe ngóng cuộc đối thoại của bọn họ ở cách đó 2m đột nhiên xen vào: “Mẹ, trong nhà bếp không phải có một cuộn băng dính sao, tối qua nấu cơm con có trông thấy.”

Người đàn ông trẻ tuổi đó nhìn có vẻ gần 30 tuổi, mặc áo sơ-mi trắng và quần âu, trông hơi thùng thình, cộng thêm thân hình mảnh khảnh, nước da ngăm đen của cậu ta, làm cả người toát lên vẻ lôi thôi, luộm thuộm.

Cậu ta gọi Lâm Mai Đình là mẹ, Thẩm Thư đoán cậu ta là con rể út của nhà này, bèn nói: “Cậu là Hứa Văn Hữu? Dẫn tôi đến bếp xem.”

Thẩm Thư đột nhiên chuyển chủ đề sang cuộn băng dính một cách không đầu không đuôi, người nhà họ Lâm và đám bạn bè đều không hiểu chuyện gì, mắt ngơ mày ngác nhìn cậu ấy. Tôi cũng nhất thời không hiểu ý đồ của Thẩm Thư, chỉ có thể im lặng đứng sau lưng nhìn, để ý đến nhất cử nhất động của cậu ấy.

Hứa Văn Hữu bước đi liêu xiêu, vai còn nhún nhảy, bộ dạng như một tên lưu manh du đãng. Lâm Mai Đình và Hoàng Oanh đều trông rất nghĩa hiệp đoan trang, hẳn bộ dạng của Hoàng Yến cũng thế, nhưng lại lấy phải tên chồng quả thực chả ra sao.

Hứa Văn Hữu đi xuống nhà bếp tầng dưới, xe nhẹ đường quen mở ngăn dưới cùng của chạn bếp ra, nói: “Băng dính ở trong này.” Vừa nói, tay vừa thò vào trong ngăn kéo.

Thẩm Thư ngăn cậu ta lại: “Để tôi.” Cậu ấy nhìn thấy bên trong ngăn kéo chứa đầy kìm, búa và những đồ linh tinh khác, liền lấy từ trong ra một chiếu tuốc-nơ-vít, gẩy đi gẩy lại đồ đạc ở trong ngăn. Lục tìm một hồi, thì thấy bên trong có hai cuộn băng dính trong suốt, một cuộn đã dùng hơn nửa, cuộn còn lại vẫn còn nguyên đai nguyên kiện. Cậu ấy dùng tuốc-nơ-vít để khều cuộn băng dính dùng rồi lên, bỏ vào trong túi ni-lông, nói: “Chú ý đừng chạm tay vào.” Sau đó cầm lấy cuộn băng dính còn mới, bảo, “Chúng ta lên lại lầu thôi.”

Người thân bạn bè nhà họ Lâm đều đứng ở lối lên cầu thang, biểu cảm trên khuôn mặt rất bất mãn, nhìn bộ dạng có vẻ khá ghét chúng tôi, lệnh đuổi khách chỉ chờ trực ở miệng, phải cố gắng lắm mới kìm nén lại được. Thẩm Thư thì như thể không trông thấy, lặng lẽ đi lên phòng ngủ của Hoàng Tứ Hải dưới con mắt của đám người xung quanh, còn tôi ngoan ngoãn bám theo sau.

Thẩm Thư bước vào phòng ngủ, kéo rèm lại kín mít, vặn mở đèn giường, chỉnh mức sáng nhất, sau đó bước ra ngoài, đóng cửa lại. Rồi cắt ra một miếng băng dính nhỏ, dán lên mặt kính mờ trên cửa, quay đầu nói với tôi: “Cô lại đây mà xem.”

Đến lúc đó tôi mới lờ mờ hiểu ra được ý đồ của Thẩm Thư, dí sát mắt vào băng dính trong suốt rồi nhìn vào trong phòng. Miếng kính mờ này rất dày, bề mặt ghồ ghề, đứng từ ngoài không thể nhìn thấy cảnh tượng bên trong. Sau khi dán băng dính lên, miếng kính mờ trở nên trong suốt, nhìn thấy rõ cảnh vật trong phòng.

Ngay bên trên miếng băng dính trong suốt này, là vết mờ nhỏ mà Thẩm Thư đã phát hiện từ trước, màu sắc chỉ hơi đậm hơn so với chỗ khác mà thôi, đó là dấu vết để lại sau khi bóc băng dính ra. Nếu như không phải Thẩm Thư cực kỳ cẩn thận và tỉ mỉ, tuyệt đối sẽ không thể nhìn ra khác biệt nhỏ bé mà mắt thường không thể phân biệt được này.

Là một bác sĩ pháp y, tôi bỗng cảm thấy hơi xấu hổ.

Thẩm Thư lại cho gọi Lâm Mai Đình, Hoàng Oanh và Hứa Văn Hữu lại, giải thích cho họ nghe về nguyên lý kính mờ sau khi được dán băng dính trong suốt có thể nhìn thấy cảnh vật trong phòng. Rồi lại bóc miếng băng dính ra, để lại một vết cực mờ ở trên kính.

Thẩm Thư chỉ vào hai vết trên kính rồi nói: “Cả hai vết này đều do việc bóc băng dính để lại, vết này màu thẫm hơn chút, do lâu ngày bám bụi, còn vết này thì mới hình thành, nên mờ hơn chút.”

Lâm Mai Đình vẫn chưa hiểu ý đồ của Thẩm Thư, hỏi: “Cậu kể những cái này ra là có ý gì?”

Thẩm Thư đáp: “Tôi nghi ngờ vết mờ này được để lại vào đêm Hoàng Tứ Hải mất, nói cách khác, có người từng đứng bên ngoài quan sát động tĩnh của ông ấy. Có lý do để nghi ngờ ông ấy bị người khác hãm hại.”

Cậu ấy vừa dứt lời, người nhà họ Lâm liền một phen xôn xao. Sắc mặt Lâm Mai Đình tái mét, hai mắt đỏ au, lồng ngực phập phồng, có thể thấy tâm trạng đang bập bềnh, không biết là kích động hay phẫn nộ. Hoàng Oanh nãy giờ im ắng cũng không thể kìm chế được nữa, nói liến thoắng: “Anh cảnh sát, anh đến đám tang của bố tôi hỏi đông hỏi tây, bao nhiêu người thân bạn bè ở đây nhìn vào làm nhà tôi mất mặt, nhưng chúng tôi cũng không dám nói gì, vì nghĩ các anh cũng chỉ hành sự theo phép tắc, một hồi rồi đi. Giờ anh lại bày ra cái trò này, dựa vào một dấu vết trên kính không biết từ đâu ra rồi phán bố tôi bị người ta hại chết, như thế là không tôn trọng với cả người sống lẫn người đã mất. Bố tôi cũng là người có địa vị nhất định trong xã hội, câu nói của anh mà truyền ra ngoài, thì ông ấy dưới suối vàng cũng không nhắm được mắt.” Hoàng Oanh khá mồm mép, nói liền một hơi, tuy âm thanh không cao, nhưng rất hùng hổ dọa người, ai nghe cũng cho rằng Thẩm Thư làm vậy là chưa đủ thỏa đáng.

Thẩm Thư cũng không phản bác, vẫn bình tĩnh giải thích với mọi người: “Việc ông Hoàng đây mất vốn dĩ không đến lượt cảnh sát can dự vào, nhưng chúng tôi đã nhận được tin báo án, nên buộc phải xuất quân, đó là kỷ luật của đội cảnh sát, phải tuân thủ chấp hành vô điều kiện. Căn phòng nơi ông Hoàng qua đời đã được dọn dẹp sạch sẽ, không còn giá trị khám xét. Còn vết mờ trên kính tuy không thể làm bằng chứng trực tiếp, nhưng chí ít đủ để chứng minh từng có người theo dõi ông Hoàng, còn động cơ và mục đích theo dõi, hoặc có động thái gì sau đó hay không, chính là nội dung công việc mà tiếp theo đây chúng tôi sẽ cho triển khai. Xin hãy tin tưởng cảnh sát chúng tôi trong quá trình làm việc sẽ bảo vệ danh dự cho ông Hoàng, và chẳng may việc ông ấy qua đời có chỗ nào chưa rõ ràng, cảnh sát cũng có trách nhiệm rửa oan cho ông ấy.”

Câu nói này của Thẩm Thư tiết chế và hợp lý, bình tĩnh và điềm đạm, gương mặt của người nhà họ Lâm đều dịu trở lại, hơi thở gấp gáp và nặng nhọc của Lâm Mai Đình cũng dần bình phục. Bộ dạng của Hoàng Oanh xem chừng vẫn còn điều muốn nói, nhưng đã kìm chế lại. Hứa Văn Hữu thì ngoan ngoãn, im lặng không nói gì.

Một người phụ nữ gần 30 tuổi đứng trong đám đông đột nhiên hỏi: “Vậy các anh định triển khai bước tiếp theo thế nào?” Người phụ nữ đó dáng người không cao, ăn mặc lạc hậu, nhưng ngũ quan lại vô cùng xinh đẹp, thoạt nhìn có nét của Lâm Mai Đình, đường cong tuyệt mỹ của một thân hình chuẩn hiện ra lấp ló dưới lớp áo rộng thùng thình.

Thẩm Thư hỏi: “Cô là Hoàng Yến?” Người phụ nữ kia gật đầu, ý bảo Thẩm Thư đã đoán đúng. Tôi nhớ lại lời Hoàng Oanh kể trước đó, giữa Hoàng Yến và bố có mối xích mích lớn, đến mức Hoàng Tứ Hải tới chết cũng không chịu nhận cô ấy làm con. Giữa hai bố con, xích mích như thế nào mới khiến họ coi nhau như người dưng đây? Điều đó có liên quan gì đến cái chết của Hoàng Tứ Hải không?

Thẩm Thư nói với mọi người: “Việc này cần mọi người phải cùng nhau bàn bạc, đạt được ý kiến thống nhất mới có thể đưa ra quyết định.” Cậu ấy dùng ánh mắt để ra hiệu cho Lâm Mai Đình, “Xin mời các thành viên trong gia đình vào phòng để chúng ta mở một cuộc hội ý nhỏ.”

Mấy người nhà họ Lâm trao đổi với nhau, cuối cùng Lâm Mai Đình khẽ gật đầu, bảo: “Vào phòng tôi đi.”

Lâm Mai Đình, Hoàng Oanh, Hoàng Yến, Hứa Văn Hữu, Thẩm Thư và tôi, tổng cộng 6 người, đi vào phòng ngủ của Lâm Mai Đình, tự tìm chỗ ngồi cho mình, sau đó, 10 cặp mắt đồng loạt nhìn vào Thẩm Thư.

Dưới ánh mắt của mọi người, ngữ khí của Thẩm Thư bình tĩnh và kiên định: “Dựa vào những gì nắm được hiện tại để phân tích, chưa thể xác định được nguyên nhân tử vong thực sự của ông Hoàng Tứ Hải, tôi đề nghị, tiến hành giám định lần hai đối với thi thể của ông ấy.”

Tôi để ý thấy Lâm Mai Đình khẽ rùng mình một cái, bà ấy là trưởng trong cái nhà này, nhưng dường như lại là người có thần kinh yếu nhất. Giọng bà ta cũng run lên: “Ý cậu là ông ấy chết không rõ ràng, phải…… giải phẫu thi thể sao?”

Thẩm Thư đáp: “Đúng, đó là lối đi duy nhất hiện giờ.” Cậu ấy nhìn chằm chằm vào biểu cảm biến hóa của Lâm Mai Đình, dường như đang thăm dò suy nghĩ thật sự trong sâu thẳm nội tâm của bà ta.

Khóe miệng của Hoàng Oanh bật ra một tiếng “Hừ”, giống như đang giễu cợt, lại như đang khinh thường, điều này khiến cho ánh mắt của mọi người đều bị thu hút vào gương mặt của cô ta. Nhưng Hoàng Oanh không nói gì, ngoảnh đầu đi chỗ khác.

Hoàng Yến và Hứa Văn Hữu cúi gằm mặt, chẳng nói chẳng rằng, nhìn bộ dạng xem ra không có ý kiến, càng không định bày tỏ ý kiến.

Lâm Mai Đình đột nhiên khóc thút thít: “Đến tổ chức đám tang cũng không xong, lão Hoàng ơi là lão Hoàng, con người ông lúc sống đã khốn đốn, mà sao chết đi rồi cũng không yên thế này.” Câu nói này rõ ràng là đang mượn cớ, xem ra trong lòng bà ta cũng không ít khổ tâm.

Hoàng Oanh an ủi bà ấy: “Mẹ, có gì thì nói, đừng khóc nữa.” Lại nhìn Thẩm Thư bảo: “Bố tôi qua đời ở trong nhà, tối hôm đó nếu không tính bản thân ông ấy, thì trong nhà chỉ có ba người chúng tôi, ý của anh tôi cũng nghe ra rồi, anh nghi ngờ trong số chúng tôi có người đã hại chết bố!”

Mọi người ai cũng đã nghĩ đến ý này rồi, có người suy nghĩ thấu đáo, có người lại suy nghĩ mơ hồ này kia, có người còn không cả dám nghĩ sâu xa hơn, sau khi Hoàng Oanh nói trắng ra như vậy, nét mặt người nhà họ Lâm đều biến sắc.

Lâm Mai Đình khóc lên khóc xuống: “Chuyện đến nước này rồi, chúng tôi đều trở thành nghi phạm, muốn làm thế nào cũng không thuận theo chúng tôi được nữa. Nếu không cho các cậu giải phẫu thi thể, thì không biết còn bao nhiêu lời đàm tiếu đổ lên đầu chúng tôi. Các cậu thích làm gì thì làm đi.”

Mấy câu nói đó của Lâm Mai Đình tuy lạt mềm nhưng buộc chặt, có cương có nhu. Thoạt nhìn bà ta có vẻ hơi yếu đuối, bộ dạng thật thà chưa từng nhìn thấy cảnh đời, nhưng khi tiếp xúc, bạn sẽ phát hiện ra bà ấy là một người rắn rỏi và lão luyện, Hoàng Oanh và bà ấy cực kỳ giống nhau.

5 giờ chiều ngày 7 tháng 6 năm 2013.

Nhà tang lễ An Ninh ở thành phố Sở Nguyên.

Di thể của Hoàng Tứ Hải nằm im ắng trong tủ đông của nhà xác. Đây là một nơi mà chúng sinh đều bình đẳng, mặc ông ta khi còn sống vinh hoa phú quý cỡ nào, hoặc là khốn cùng rách nát đến đâu; Mặc ông ta có là anh hùng cái thế, hay là vô danh tiểu tốt, một khi đã nằm ở đây rồi, bộ dạng của ai cũng như ai.

Trước khi giải phẫu thi thể Hoàng Tứ Hải, tôi và Thẩm Thư đều có chút lo sợ. Dù gì bằng chứng giám định cũng chưa đủ sức thuyết phục, mà người nhà họ Lâm đồng ý giải phẫu, dường như cũng có ý tức giận, một là quan hệ nhà họ Lâm phức tạp, Hoàng Tứ Hải chết không rõ ràng, khó tránh khỏi việc bị người đời bàn tán, kết quả giám định của cảnh sát có thể giúp họ chặn cái miệng nhàn rỗi của thiên hạ lại; Thứ hai cũng không loại trừ khả năng bọn họ muốn nhìn thấy cảnh sát chúng tôi phải bẽ mặt.

Mà quá trình giám định thi thể lại vô cùng gian truân.

Tôi tỉ mỉ kiểm tra thi thể của Hoàng Tứ Hải, đến một cọng lông cũng không bỏ sót, nhưng không phát hiện ra bất kì một vết thương ngoài nào. Tôi chỉ sợ để lọt chỗ nào, lần thứ hai dùng đến cả kính lúp để kiểm tra từng li từng tí, bắt đầu từ cọng tóc, dò tới tận móng chân, đến cả sàn miệng, kẽ móng cũng không bỏ qua, nhưng vẫn chẳng thu được gì. Trên dưới cơ thể Hoàng Tứ Hải đến một vết xước cũng không có, càng không có vết thương do vật nặng, vật nhọn nào gây ra. Cả hai quá trình tiêu tốn của tôi hơn 2 tiếng đồng hồ, tôi tập trung tinh thần để giám định, cho đến khi mắt mỏi rã rời, cơ vai căng cứng, dù phòng giải phẫu bật điều hòa, nhưng toàn thân tôi vẫn toát mồ hôi hột.

Tôi uể oải ngồi sụp xuống ghế, nhấc điện thoại lên báo cáo kết quả giám định cho Thẩm Thư.

Điện thoại chỉ đổ một hồi chuông, Thẩm Thư đã bắt máy, rõ ràng là cậu ấy đang nóng lòng chờ đợi. Tôi nói: “Không còn cách nào khác, bắt buộc phải giải phẫu.” Thẩm Thư đáp: “Đã đâm lao rồi thì phải theo lao thôi, kể cả giải phẫu xong cũng không phát hiện được gì, chí ít có thể chứng minh cuộc gọi báo án nặc danh ấy là sai, mà chúng ta cũng không bị coi là tắc trách.” Tôi rào trước đón sau bảo: “Đồng tử thi thể giãn nở, bề mặt thi thể có nhiều vết máu tụ bầm tím, phù hợp với đặc trưng tử vong do bệnh tim tái phát.” Thẩm Thư im lặng một hồi mới đáp: “Tiếp tục đi, người nhà nạn nhân đã ký vào đơn đồng ý rồi, không cần phải do dự.”

Kết quả giải phẫu không mang lại cho chúng tôi thêm nhiều manh mối. Bên trong thi thể Hoàng Tứ Hải đều không có vết thương do vật nhọn gây ra hay vết thương do vật cùn đánh đập, không xuất huyết điểm, không dấu hiệu trúng độc. Cơ tim của nạn nhân phì đại, chứng tỏ khi còn sống ông ta bị mắc bệnh tim trong một thời gian dài. Hàm lượng Ka-li trong máu vượt quá tiêu chuẩn một cách nghiêm trọng, gấp đôi người bình thường, nghi ngờ nguyên nhân dẫn đến cái chết là sốc tim do tăng Ka-li trong máu. Đương nhiên, đây là điểm nghi vấn duy nhất tính đến thời điểm hiện tại, bởi vì hàm lượng Ka-li trong máu của người mắc bệnh tim vượt tiêu chuẩn là điều vô cùng nguy hiểm, mà nguyên nhân gây ra kết quả này thì chưa rõ.

Lâm Mai Đình đã chứng minh Hoàng Tứ Hải khi còn sống từng sử dụng Captopril trong một thời gian dài để chữa bệnh tim, chúng tôi cũng tìm thấy trong ngăn kéo tủ đầu giường ở phòng ngủ của Hoàng Tứ Hải một hộp 12 lọ và nửa lọ Captopril. Tôi đoán đây có thể là một trong số nguyên nhân khiến cho hàm lượng Ka-li trong máu ông ấy cao quá mức cho phép. Nhưng chỉ dùng Captopril thì không đủ để hàm lượng Ka-li trong máu tăng vọt dẫn đến tử vong. Nếu như Hoàng Tứ Hải chết vì bị mưu sát, chí ít hung thủ đã sử dụng một thủ đoạn kín đáo và tàn nhẫn khác.

“Tôi nghi ngờ Hoàng Tứ Hải chết vì ngộ độc Succinylcholine.” Tôi cẩn thận nói ra suy đoán của mình cho Thẩm Thư, “Hàm lượng Ka-li trong máu ông ta vượt ngưỡng cho phép nghiêm trọng, đây tuyệt đối không phải chỉ do tác dụng phụ của Captopril, nhất định phải có tác dụng tương đồng của loại thuốc khác mới đạt được hiệu quả như này. Theo như tôi biết, loại thuốc làm tăng vọt hàm lượng Ka-li trong cơ thể người và gây ra các triệu chứng giống bệnh tim, không gì khác ngoài Succinylcholine.”

“Succinylcholine.” Thẩm Thư nhắc lại tên thuốc ấy, nói, “Tôi biết loại thuốc này, việc thi hành án tử hình bằng cách tiêm thuốc độc hiện nay chính là dùng Succinylcholine, nó cũng là thuốc gây mê mà bọn trộm chó hay dùng nhất. Loại thuốc này không khó để mua được trên thị trường.”

“Đúng vậy,” Tôi đáp, “Nhưng muốn sử dụng Succinylcholine nhất định phải tiêm qua tĩnh mạch, tác dụng bằng đường uống rất hạn chế. Tôi đã kiểm tra trên thi thể Hoàng Tứ Hải hai lần, nhưng không tìm ra bất kì một mũi tiêm nào. Dựa theo kinh nghiệm trước đây để mà nói, mũi tiêm trên thi thể không hề khó tìm, khả năng bỏ lọt là rất thấp……” Tôi nói đến đây, một tia sáng bỗng lóe lên trong đầu, buột miệng bảo, “Trời ạ, sót mất một chỗ rồi.”

Tôi chẳng thèm để ý đến tiếng “Alo” của Thẩm Thư ở đầu dây bên kia, đặt điện thoại xuống, lại trở về trước thi thể Hoàng Tứ Hải, gỡ tay ông ta ra. Do chết đã lâu, lại để trong phòng lạnh một thời gian dài, hai tay ông ta cứng đờ, tôi cẩn thận nhích từng tí một, tốn sức lắm mới mở được tay ông ta ra một góc 45 độ. Tôi lấy ra một lưỡi dao sắc bén, kiên nhẫn cạo sạch phần lông nách của thi thể đi.

Ở nách bên phải của thi thể, có một cục nhô lên, đường kính khoảng 5mm, màu xanh tím, quan sát kĩ, ở mé trái của cục nhô lên có một cái lỗ rất nhỏ — Khả năng cao là mũi tiêm được hình thành sau khi tiêm dưới da.

Sự phấn khích và áy náy ập đến với tôi. Áy náy vì tôi suýt chút nữa đã để lọt một chứng cứ quan trọng — Tiêm dưới nách nạn nhân, khiến cho mũi tiêm bị ẩn dưới lông nách, thủ đoạn phạm tội tinh vi lại kín đáo này, là lần đầu tiên tôi bắt gặp trong sự nghiệp của mình. Còn hưng phấn vì, cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được bằng chứng lập án vững chắc, có thể nhờ đó mà triển khai điều tra đối với vụ án của Hoàng Tứ Hải.

Vết bẩn không dễ thấy mà băng dính trong suốt để lại trên kính, nguyên tố Ka-li còn sót lại bên trong cơ thể nạn nhân, và vết tiêm dưới nách thi thể, mỗi một chứng cứ đều rất khó phát hiện, mà thứ chúng tôi phải đối mặt, là một tên hung thủ xảo quyệt không dễ gì đối phó.

[Còn tiếp]

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *