
Họ sống ở phía tây thung lũng sông Nile. Họ sống phân bố từ Đại Tây Dương với ốc đảo Siwa, ở Ai Cập, và từ Địa Trung Hải đến sông Niger. Trong lịch sử họ nói những ngôn ngữ Berber, những ngôn ngữ này cùng hình thành nên một nhánh của ngữ hệ Phi-Á.
Vào khoảng tầm năm 202 trước Công nguyên, Họ tạo nên một quốc gia Berber cổ đại mà ngày nay không còn tồn tại, từng là một quốc gia cường thịnh với vị thế vùng đệm giữa La Mã và các vùng đất buôn bán với La Mã.
Vương quốc này nằm vị trí ở biên giới phía đông của Algérie, giáp tỉnh Mauretania của La Mã (ngày nay là Algeria và Maroc) về phía tây, tỉnh châu Phi (ngày nay là Tunisia) về phía đông, Địa Trung Hải về phía bắc và sa mạc Sahara về phía nam.
Vào thời kỳ đầu chiến tranh Punic họ là đồng ming của Carthage, Họ nổi tiếng nhờ sở hữu một loại kỵ binh hạng nhẹ vô cùng đáng sợ đó là loài ngựa nhỏ bé so với những con ngựa khác cùng thời, và thích nghi tốt để di chuyển nhanh hơn trên quãng đường dài. Các kỵ binh Numidian cưỡi ngựa mà không cần yên hoặc dây cương , điều khiển thú cưỡi của họ bằng một sợi dây đơn giản quanh cổ ngựa và một cây gậy cưỡi ngựa nhỏ. Họ không có hình thức bảo vệ cơ thể nào ngoại trừ một chiếc khiên tròn bằng da hoặc da báo , và vũ khí chính của họ là lao cùng với một thanh kiếm ngắn. Do tính cơ động cao do không gần áo giáp họ dễ dàng ép chết những quân đoàn Lê dương hùng mạnh trong trận Cannea.
Tuy vậy vì những bất đồng nên Một lần nữa trong Chiến tranh Punic lần thứ hai , người La Mã đã liên minh với vua Numidian Masinissa , người đã lãnh đạo 6000 kỵ binh chống lại quân của Hannibal trong trận Zama , nơi “Kỵ binh Numidian lật ngược thế cờ”.
Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội La Mã sử dụng kỵ binh hạng nhẹ Numidia trong các đơn vị riêng biệt ( equites Numidarum hoặc Maurorum ).
Sau cái chết của Jugurtha Numidia tuy l bị chia cắt và sát nhập vào lãnh thổ La Mã, tuy vậy Kị binh Numidia cũng được sử dụng trong cuộc nội chiến của Caesar theo phe của Pompey và được sử dụng trong Trận chiến Utica .
