Nhà thờ, trông chả khác gì, một câu lạc bộ sách mà hầu hết thành viên trong đó đều chẳng thèm đọc lấy cuốn sách.
May cho họ, vị mục sư, linh mục – hay bất kì danh xưng nào họ hay dùng để gọi – đã lật qua hàng ngàn trang giấy và học hỏi được một vài thứ. Nhưng đó chỉ là một chu trình thường thấy thôi, đúng không? Phải đi đến nhà thờ trong suốt 20 năm liên tiếp và bạn bắt buộc phải quay lại tầm một hay mười lần nữa gì đó.
Tôi cho rằng có nhiều thứ đáng để xem hơn là đọc Kinh Thánh. Chẳng hạn lắng nghe tiếng hát, lời cầu nguyện hay xem mấy đức nhóc bị dìm xuống hồ rửa tội. Ngoài ra còn có tiền nữa, bay thẳng từ túi quần của bạn tới cái thùng quyên góp của nhà thờ, hoặc là ba cái vụ ăn thịt chúa Jesus và uống máu của Ngài chẳng hạn. Tất nhiên là không phải theo nghĩa đen. Mặc dù, ngay cả theo nghĩa bóng đi chăng nữa thì cái đám này vẫn chả khác gì một bộ lạc trong rừng rậm.
Thường thì tôi khá thích việc nhấp một ngụm rượu rồi rên rỉ mấy câu kiểu như “Chà, máu này ngon nhỉ?”
Nhưng, tôi không ở đây là để gây rối tới nhà thờ hay tôn giáo gì gì đó; Tôi ở đây là để nói về những điều ngược lại. Những gì trong Kinh Thánh là thật. Hay ít nhất là những gì liên quan đến các thiên thần.
Nghe này, hầu hết mọi người khi nhắc đến thiên thần đều nghĩ về một người hầu với cơ bắp trời sinh, lưỡng tính với đôi cánh trắng từ lông vũ, mặc áo giáp mạ vàng (hoặc áo choàng giống Nữ Thần Tự Do) và chiếc vòng trắng lơ lửng trên mái tóc xoăn mềm mại của họ.
Nhưng, trong Kinh Thánh viết gì?
Daniel 10:5-6:
“Tôi ngước nhìn và trước mặt tôi là một người đàn ông mặc áo choàng từ vải vanh cùng với thắt lưng Uphaz bằng vàng ròng quấn quanh eo. Thân hình hắn cứng như đá topaz, khuôn mặt như tia chớp, đôi mắt rực lửa như ngọn đuốc, tay chân sáng lấp lánh như đồng thau và mang trong mình giọng nói như của hàng vạn người cùng cất tiếng.”
Tôi nói bạn nghe này, đó không phải là cách mà hầu hết chúng ta sẽ hình dung khi nhắc đến thiên thần. Có thể một vài chi tiết nghe thì khá quen thuộc như áo choàng từ vải lanh nhưng còn khuôn mặt tia chớp, đôi mắt rực sáng như mặt trời và cả giọng nói sấm rền thì sao?
Nghe đáng sợ đấy.
Nhưng mà trông họ thì cũng thật sự đáng sợ như vậy.
Tôi đã từng nhìn thấy một thiên thần.
Giờ thì, hẳn bạn đang tự hỏi làm thế nào mà tôi có thể nhìn thấy một thiên thần được thì câu trả lời là: tôi đã đeo kính râm. Điều đó là cần thiết vì họ thật sự sáng chói thấy mẹ. Hoặc, có thể bạn đang tò mò hơn về tình huống nào khiến tôi phải đối mặt với một thiên thần chứ gì.
Chà, nó bắt đầu bằng một tội lỗi – cũng chẳng có gì cực đoan lắm – chỉ là giết người thôi. Và trước khi bạn bắt đầu lo lắng thì không, tôi không phải là kẻ giết người hoặc kẻ bị giết gì cả. Tôi còn đang sống sờ sờ để ngồi gõ mấy dòng này cho các bạn đọc nè, thấy chưa?
Dù sao đi nữa thì, có một người đàn ông sống trong một nhà thờ cũ nát trên núi thuộc thị trấn. Đấy chỉ là một toà nhà đơn giản với chốt gác chuông và tất nhiên, một cái chuông. Trên nóc nhà là một cây thánh giá lớn cùng rất nhiều những cây thánh giá nhỏ lẻ khác cắm xuống khu đất xung quanh nhà thờ. Thoạt nhìn thì trông nó giống cái nghĩa địa nhưng không có cái tên nào trên đó cả. Cũng không có bất kì quy định rõ ràng vào về giới hạn đất của họ cả. Mấy cây thánh giá chỉ đơn giản là nằm rải rác xung quanh và tất cả đều trông hoang vắng thật sự.
Vậy nên, một ngày nọ, tôi và thằng bạn thân – Brad đã lang thang đến đó trong cơn say bí tỉ cùng với sự sững sờ, à ý tôi là đần con mẹ nó độn mới phải. Không một ai muốn đi tới cái nhà thờ, ngôi nhà hay bất kì thứ gì mà người ta hay gọi về cái chốn khỉ ho cò gáy đó cả. Có một sự thật là nơi đó đầy rẫy các tin đồn và không một cái nào trong số chúng hay ho hết.
Và, người đàn ông sống ở đó là con trai của một gã mục sư – một gã mục sư chết giẫm nhất, xấu tính nhất, tàn nhẫn nhất, tồi tệ nhất mà bạn từng thấy. Một gã đàn ông có vẻ ngoài thánh thiện với mái tóc dài, râu ria xồm xoàm trông như một ẩn sĩ, người có thể đánh bật tội lỗi ra khỏi bất cứ ai có mong muốn được cứu vớt.
Gã mục sư, tất nhiên, đã làm tốt trách nhiệm giảng đạo cho đám con chiên ngoan đạo; và cả con trai của gã ta nữa. Người vợ không bao giờ xuất hiện trong bức tranh của gia đình này. Theo như chúng tôi biết thì gã ta thậm chí còn chưa bao giờ kết hôn. Tuy nhiên, phải có một người mẹ ở đâu đó thì mới lòi ra thằng con chứ. Hẳn phải có, đúng không?
Dù sao đi nữa, vài năm trước, gã mục sư đã chết. Già yếu và ở độ tuổi 98…không ai lại có thể chịu nỗi một cú ngã chúi thẳng xuống núi cả.
Không ai đau buồn cho cái chết của gã vì chính họ đã chứng kiến cảnh toàn bộ đám con chiên ngoan đạo của gã ta đã chết như thế nào. Vấn đề nằm ở chỗ này này: tất cả những người trong hội thánh của ông ta đều chết vào cùng một khoảng thời gian nhưng thi thể của họ được phát hiện ở nhiều nơi khác nhau trong tiểu bang. Ý tôi là, không ai một trong số họ được tìm thấy ở gần người khác cả, ngay cả những cặp vợ chồng đã kết hôn. Khá kì lạ khi thi thể một người đàn ông được tìm thấy ở phía Đông của bang trong khi vợ anh ta lại nằm tuốt bên phía Tây.
Những điều bí ẩn luôn bủa vây xung quanh gã mục sư, thậm chí là ngay cả chính cái chết của gã ta. Tôi chỉ nghĩ rằng gã bị sát hại vì đã gây ra đám lộn xộn đó thôi. Có lẽ là thủ phạm là cậu con trai chẳng hạn. Nhưng bạn biết gì không, cái chết của gã không hề được điều tra hay gì cả. Họ chỉ quẳng gã vô túi, dán thẻ tên rồi thiêu gã thôi.
Hết chuyện.
Vậy nên, một lần nữa, hãy để tôi nhắc rằng việc tôi và Brad lang thang đến cái nhà thờ là một chuyện ngu ngốc đến mức nào.
“Tao cá ông ta thậm chí là chẳng còn sống đâu.” Brad nói khi chúng tôi đi bộ lên núi và bắt gặp cái tháp chuông.
Chưa ai nhìn thấy ông con trai trong suốt nhiều năm qua nên có khả năng cao, hoặc ít nhất là trong tâm trí chúng tôi, rằng ông ta đã chết.
“Vậy nếu ông ấy còn sống thì sao?”
Brad lo lắng nhìn tôi rồi lại cười khúc khích, sau đó là cả một tràng cười sảng khoái khiến cậu ấy phải ngồi hẳn xuống. “Vậy thì tốt hơn hết là chúng ta nên vắt chân lên mà chạy thôi.” Cậu ấy nói giữa những lần thở khò khè vì cười quá nhiều.
Tôi bật cười và cũng phải cúi xuống. Tôi biết chuyện này không đặc biệt buồn cười nhưng chúng tôi đã rất vui vẻ và say xỉn. Vào thời điểm đó, chúng tôi thậm chí đều nhận ra rằng việc đến cái nhà thờ đó vào lúc bấy giờ là ngu ngốc đến mức nào nhưng chúng tôi không quan tâm.
Cuối cùng thì cả hai cũng đứng vững trở lại và tiếp tục lê thân đến khu nhà, len lỏi giữa cây thánh giá này đến cây thánh giá khác.
Brad quỳ xuống để rút một cây thánh giá từ dưới đất lên. “Mả cha. Cái thứ này dính cứng ngắc xuống dưới luôn.” Cậu ấy tiếp tục kéo cho đến khi mặc đỏ bừng và ngã dập đít để rồi phải thở hồng hộc. “Chúa ơi, hình như nó kẹt cứng vô trong đá luôn á ba.”
Tôi cười khẩy, loạng choạng bước qua và mặc kệ nó. Chắc chắn rồi, cây thánh giá sẽ chẳng nhúc nhích gì đâu. “Chúng ta phải cần vua Arthur cho cái thứ chết giẫm này chứ hả?” Tôi chìa tay ra và đỡ Brad đứng dậy.
Cho bạn dễ hình dung ra một bức tranh trong đầu thì hãy để tôi làm rõ điều này trước nhé. Ông con trai của gã mục sư có thể đã nhìn ra bên ngoài và thấy chúng tôi. Và có lẽ chính ông ấy đã làm thế.
Sau khi khám phá xong khu đất, chúng tôi chuyển sang cái nhà thờ trông có vẻ đã bị bỏ hoang suốt thời gian qua. Lớp sơn trắng trên tường bong tróc như vỏ trứng luộc. Bản lề của cửa sổ bị hổng. Các vết mốc thối và ăn mòn trải dọc theo các góc bo và đường nối. Đám chuột nhốn nháo khắp nơi khi chui từ khe hở này sang khe hở khác.
“Eo ôi, bừa bộn thật. Ông ta nên liên hệ với bộ phận kiểm soát dịch hại được rồi đấy.” Brad cười khúc khích.
Tôi huých nhẹ cậu ta, cố gắng kiềm lại tiếng cười của chính mình khi bước đến cửa chính.
“Chúng ta có nên gõ cửa không?” Tôi thì thầm.
Brad không do dự mà đập tay thẳng vào cánh cửa có tuổi đời hàng chục năm và hét. “Dịch vụ giao đồ ăn eyy. Đơn hàng cho máu và thịt của chúa Jesus cùng một phần khoai tây chiên.”
Điều đó làm chúng tôi khá buồn cười. Cả hai chúng tôi loạng choạng bước ra và cười phá lên.
Với đôi mắt ngấn nước, hàm mỏi nhừ và phổi đau nhức vì cười quá nhiều, chúng tôi quay trở lại với cánh cửa. Brad lại đập vào nó thêm lần nữa. “Giáo hội các Thánh hữu Ngày Sau của Chúa Jesus…” Cậu ấy đấu tranh để tiếp tục nhịn cười. “…có một phút để…” Cậu ấy vẫy vẫy tay, chảy nước mắt vì cười và không thể tiếp tục được nữa.
“Được rồi, được rồi,” tôi cười khúc khích và bước đến cạnh cánh cửa. “Nó thậm chí còn bị khoá sao?”
Tôi thử tay cầm và cánh cửa bật mở. “Đệt…”
Cả hai chúng tôi đều ngừng cười, lấy lại nhịp thở và quay sang nhìn nhau.
“Giờ sao nữa?”
“Chúng ta có đi vô không?”
Tôi đẩy cửa mở ra thêm chút nữa và nghía vào trong.
Tất cả những gì tôi thấy là một đống mục nát bám đầy bụi, lũ chuột chạy tràn lan khắp nơi và đang lùng sục kiếm thức ăn, chắc hẳn là có miệng thịt thối rửa nào gần đây. Một mùi thối rửa nồng nặc. Thoạt đầu, tôi cứ nghĩ đó là một thi thể, tôi cứ tưởng đó là thi thể của cậu con trai. Và khi chúng tôi miễn cưỡng đẩy cửa rộng ra thêm chút nữa, nơi này để lộ những món đồ nội thất xiêu vẹo đã từng một thời đắm chìm trong vinh quang. Bên cạnh đó, chúng tôi còn tìm thấy vô số xác động vật – thú có túi, gấu mèo, mèo; một vài loài động vật gặm nhấm hung hãn khác còn kêu ré lên khi tranh giành nhau đống xác thối rữa đó.
Brad và tôi bước vào trong, đầy mê hoặc và kinh hoàng. Cả hai chúng tôi phải bịt miệng lại, che hết nửa dưới khuôn mặt của mình và liếc qua những cảnh tượng từ kinh tởm này đến cảnh kinh tởm khác.
Hàng ngàn cây thánh giá với nhiều kích cỡ khác nhau treo trên tường đều được sơn bởi máu. Và đáng sợ hơn nữa, thậm chí một số cây vẫn còn đọng máu tươi nhỏ loang lổ xuống sàn nhà.
Thật điên rồ.
Cánh cửa bỗng đóng sập lại ngay sau lưng và khi quay lại, chúng tôi bất ngờ đối mặt với con trai của gã mục sư.
Ông ta giờ đã già, tóc tai dài luộm thuộm với bộ râu xồm xoàm trông giống hệt cha mình. Và trông ông ta thật bẩn. Da dẻ bẩn thỉu cùng với máu và phân lẫn lộn. Ông ta trợn trừng mắt cùng với hàm răng thưa và gầy sộp. Những vết sẹo dày chạy dọc cơ thể đang trong tình trạng khoả thân của ông ta chả khác gì những sợi dây thừng ẩn dưới lớp da.
“Chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi sẽ rời đi ngay lập tức.” Brad nài nỉ.
Người đàn ông nhìn chúng tôi với cánh tay run rẩy. Sau đó, ông ta mở miệng ra hét thật to rồi lao vào chúng tôi.
Tôi loạng choạng lùi ra sau, giẫm phải một con chuột khiến nó ré lên, và ngã xuống một cái xác thú có túi đang thối rữa. Phần nào giải tán đám gặm nhấp đang ăn uống tưng cừng. Brad vẫn còn đứng vững và lao vút về phía sau nhà thờ.
Mẹ kiếp, tôi thoáng nghĩ khi người đàn ông khùng điên đó tiến về phía tôi. Ông ta đè lên người tôi và kẹp tay quanh cổ họng tôi rồi luyên thuyên cái gì đó không mạch lạc cho lắm. Nhịp điệu của những gì ông ta vừa nói nghe cứ như một lời cầu nguyện vậy. Những cái móng tay dài thòng lòng của ông ta cắm sâu da thịt của tôi. Mặc dù trông mỏng manh và có vẻ yếu ớt nhưng ông ấy mạnh hơn vẻ bề ngoài nhiều.
“Brad! Cứu!”
Cánh tay của người đàn ông ngày càng kẹp chặt lấy cổ tôi hơn, mắt ông ta trợn to và tiếng nói lan man của ổng cũng ngày một to hơn. Và sau đó, một tiếng đập mạnh có vẻ ướt át vang lên, đầu của ông ta bị hất sang một bên và gục ra khỏi tôi.
Brad đứng trước mặt tôi với một cây thánh giá bằng vàng trên tay. “Đù má.”
Chúng tôi nhìn sang người đàn ông đang nằm úp mặt trong vũng máu ngày một lớn hơn.
“Đù má.” Tôi nói.
Brad thả cây thánh giá xuống và sau đó anh ấy cũng lặp lại. “Đù má.”
Trong một phút giây tuyệt vời, tất cả những gì chúng tôi có thể nói là “Đù má”.
Tôi đứng dậy và rời khỏi cái xác thú có túi. “Chúng ta phải ra khỏi đây.”
“Tao giết ổng mất rồi.”
“Mày đã cứu tao.”
“Nhưng mà tao giết ổng rồi.”
“Ông đã cố giết tao trước.”
Brad trố mắt nhìn tôi rồi quay sang nhìn cơ thể đang rỉ máu của người đàn ông. “Tao sẽ bị bắt mất.”
“Không, không phải vậy. Không ai lang thang tới đây đâu. Cứ rời khỏi đây đi đã.”
Tôi nắm lấy tay Brad. Khi tôi kéo cậu ấy về phía cửa. Bỗng nhiên một tiếng sấm “DỪNG LẠI” vang lên làm rung chuyển toàn bộ nhà thờ.
Chúng tôi quay lại và đứng ở phía xa xa…là một thiên thần. Tất nhiên là vào thời điểm đó, chúng tôi không biết kia là thiên thần, chỉ biết đó không phải là con người thôi.
Nó rất cao với khuôn mặt như một quả cầu điện và đôi mắt như ánh mắt trời sẵn sàng thiêu đốt bạn bất kì lúc nào. Nó mặc một chiếc áo choàng trắng từ vải lanh. Cơ thể như một viên ngọc từ đại dương và cánh tay thì như được đúc từ một khối đồng.
Nó bước về phía tôi cùng đôi cánh lông đen sải rộng từ lưng như thể chuẩn bị bay lên nhưng rồi lại gập về phía sau.
“Các ngươi đã làm gì?” Giọng nói vang vọng.
Brad và tôi không nói nên lời.
Thiên thần hỏi lại nhưng mạnh mẽ hơn. “CÁC NGƯƠI ĐÃ LÀM GÌ?”
“Ông ta…tấn công bạn tôi.” Brad lầm bầm.
Thiên thần nhảy đến chỗ chúng tôi, hạ cánh bằng một trấn động đất khiến các mảnh gỗ vỡ bay tứ tung. Nó kẹp chặt cổ họng Brad và nhấc bổng cậu ấy lên khỏi mặt đất rồi nói. “Nó là con trai của ta.”
Brad thử đá nhưng thất bại ê chề. Cậu ấy càng chống cự thì thiên thần lại càng siết tay chặt hơn.
“Để cậu ấy yên!” Tôi hét lên và đấm vào bụng thiên thần nhưng chỉ tổ tự làm gãy tay mình.
Thiên thần nhìn tôi xuýt xoa bàn tay bị gãy của mình rồi quay lại với Brad, nó dang rộng đôi cánh của mình và sau đó, như một khẩu đại bác, thiên thần phóng thẳng ra khỏi trần nhà cùng với người bạn của tôi trên tay. Những mảnh gỗ và mái ngói vỡ rơi xuống như mưa và hai người họ biến mất trên bầu trời.
Thi thể của Brad được tìm thấy sau đêm hôm đó tại phía nam của bang.
Vậy chuyện gì đã xảy ra tiếp theo? Tôi đã báo cảnh sát. Tôi nói với họ rằng chúng tôi đã đi đến nơi mà chúng tôi nghĩ là nhà thờ bị bỏ hoang, bị tấn công bởi một người đàn ông nhuốm máu và chiến đấu với ông ta. Tôi gần như cắt bỏ phần thiên thần nhưng sau đó…chết tiệt thật. Mọi người dân sống quanh đây đều theo đạo; có thể họ sẽ tin tôi.
Chà, khi bạn nói với mọi người rằng bạn của bạn, người được tìm thấy cách đó hàng trăm dặm, đã bị giết bởi một thiên thần trong ngôi nhà thờ cũ ở địa phương, thì họ sẽ coi bạn chẳng khác nào một đứa tâm thần. May mắn thay, họ không xem tôi như một kẻ sát nhân.
Tuy nhiên, họ đã lên núi và điều tra vì tôi có nhắc đến việc con trai của gã mục sư nằm chết trên sàn. Và bạn biết họ đã tìm thấy gì không? Không một thứ gì cả. Ngay cả xác động vật cũng chẳng còn.
Giờ thì tôi trở thành một thằng đểu giả xỏ lá của thị trấn.
Tôi đã tìm đọc rất nhiều Kinh Thánh kể từ đó. Tôi có tìm thấy mô tả về thiên thần trong Sáng thế ký 10 và khá chắc rằng đó là thứ tôi đã nhìn thấy vào tối hôm nọ.
Chúng tôi được biết rằng bố của người đàn ông này là một gã mục sư. Ông ta đã chết, đã bị chôn vùi và không thể nào là thiên thần được. Thật lòng mà nói thì tôi còn nghĩ ông ta xuống địa ngục thì hợp lí hơn.
Vậy…thiên thần này rốt cuộc là ai? Ý của nó là gì khi bảo rằng người đàn ông đó là con trai của nó?
Sáng thế ký 6:2-4:
“Những người con trai của Chúa thấy rằng con gái loài người thật tốt đẹp. Chúng bèn lấy bất kể người nào chúng chọn làm vợ. Sau đó, Chúa đã phán rằng “Linh hồn của ta sẽ chẳng ở trong loài người mãi mãi, vì đó chỉ là phần xác thịt: đời người chỉ có giới hạn 120 năm mà thôi.” Đời đó và đời sau, người Nephilim sẽ sống trên mặt đất vì những người con trai của Chúa đã ăn nằm với con gái loài người và sinh ra họ.”
Có lẽ đây chính là câu trả lời.
Có thể gã mục sư không phải là cha ruột của người đàn ông. Hoặc có thể…thiên thần là mẹ của ông ấy chăng?
Tôi không chắc về cấu tạo của thiên thần cho lắm.
Nhà thờ đó vẫn còn nằm trên đỉnh núi. Tôi đã quay trở lại nơi đó. Không phải vào bên trong, chỉ đứng ở rìa ngoài thôi. Tôi đứng đó cùng với nỗi buồn tủi, sự tức giận và cả tò mò nữa. Khi nhìn vào tòa nhà cũ nát với một lỗ thủng lớn trên mái, tôi bỗng nhận ra một cây thánh giá mà tôi chưa từng nhìn thấy trước kia.
Nó lớn hơn hẳn những cái khác, không được đánh dấu và làm bằng vàng ròng.