Câu chuyện bi kịch của một thiên tài “nhân tạo” có IQ cao nhất thế giới

William James Sidis sinh ngày 1/4/1898 trong gia đình di cư người Ukraine gốc Do Thái. Ông nổi danh là “thần đồng”, sở hữu IQ khoảng 250-300 và được ghi nhận là người thông minh nhất thế giới. Bố mẹ William đều rất thông minh và kỳ vọng nhiều ở con trai. Bố ông, Boris Sidis, là nhà tâm lý học nổi tiếng với nghiên cứu về thuật thôi miên và rối loạn tâm thần. Mẹ ông, bà Sarah, là một trong số ít nữ bác sĩ có bằng y khoa vào thời điểm đó. Tuy nhiên, bà từ bỏ sự nghiệp để chuyên tâm giáo dục con trai. Đây có lẽ là khởi nguồn của mọi bất hạnh mà William gặp phải trong đời.

Thần đồng William James Sidis chịu sự giáo dục hà khắc từ nhỏ bởi bố mẹ ông không chỉ cần đứa con thông minh. Họ muốn đào tạo một thiên tài. Bà Sarah dành tất cả tiền tiết kiệm của gia đình để mua sách báo, trang thiết bị có thể khuyến khích tinh thần học hỏi cho con trai. Ông Boris áp dụng những liệu pháp tâm lý học với con trai. Nhờ đó, William học chữ chỉ trong vòng vài tháng. Theo Today Foundout, dưới tham vọng cũng như nỗ lực của cha mẹ, William James Sidis sử dụng ngôn từ thành thạo khi mới 6 tháng tuổi và biết tự dùng thìa để ăn cơm khi 8 tháng tuổi.

Ông bà Sidis rất tự hào về con trai, cũng như phương pháp giáo dục sớm mà vợ chồng ông áp dụng. Họ liên tục xuất bản những tài liệu học thuật cho thấy thành công của hai người trong nuôi dạy con. Dưới tham vọng của ông bà Sidis, William đương nhiên không thể trải qua những năm đầu đời như bao đứa trẻ khác. Ông thậm chí không có tuổi thơ. 18 tháng tuổi, William bắt đầu đọc báo New York Times. Ngoài ra, ông phải học 7 thứ tiếng, bao gồm tiếng Pháp, Đức, Latin, tiếng Do Thái, Hy Lạp, Nga và Vendergood – ngôn ngữ do chính ông sáng tạo. 7 tuổi, William học chương trình trung học phổ thông. Hai năm sau, ông trúng tuyển ĐH Harvard nhưng không được nhập học do trường đánh giá cậu sinh viên này “chưa trưởng thành về mặt tâm lý”.

Điều đó trái ngược với mong muốn của ông bà Sidis – người luôn khao khát cả thể giới biết đến đứa con thần đồng cùng thành công của họ trong việc làm cha mẹ. Hai người đưa sự việc ra trước dư luận, truyền thông. William trở thành đề tài của báo chí trong một thời gian dài. Ông lên trang nhất của New York Times và hoàn toàn không biết cách ứng phó với sự nổi tiếng ấy. Sau đó, ông dành thời gian để phát hiện và chỉnh sửa những sai sót trong các cuốn sách Toán và dự định tìm ra điểm chưa hợp lý trong thuyết tương đối của Einstein. Trong khi đó, ông bà Sidis tiếp tục gây sức ép với lãnh đạo ĐH Harvard. Năm 11 tuổi, William trở thành sinh viên của ngôi trường danh giá hàng đầu thế giới trong khi bạn cùng tuổi vẫn trải qua tuổi thơ vui vẻ, vô tư. Phóng viên theo chân William khắp nơi trong khuôn viên trường. Ông gần như không có thời gian, không gian riêng tư. 5 năm sau, ông tốt nghiệp hạng ưu, chấm dứt chuỗi ngày không mấy vui vẻ tại Harvard.

Amy Wallace, người viết tiểu sử của William James Sidis, cho biết trong thời gian học tập tại đây, người được gọi là thần đồng thường xuyên bị cô lập và làm nhục vì sự thật thà của mình. Siêu thần đồng từng có thời gian ngắn ngủi nghiên cứu và giảng dạy tại ĐH Rice trước khi nghỉ việc do áp lực từ việc tiếp xúc sinh viên lớn tuổi hơn mình. Ông trở lại Boston, theo học chương trình Luật tại Harvard nhưng cũng không duy trì được lâu. Năm 1919, ông bị bắt vì dẫn đầu cuộc biểu tình chống chiến tranh. Trong tù, ông gặp người phụ nữ duy nhất ông yêu – bà Martha Foley. Mối quan hệ này không kéo dài, chủ yếu do suy nghĩ lệch lạc mà cha mẹ ông đã tiêm nhiễm, rằng tình yêu, nghệ thuật, tình dục là yếu tố tạo ra “cuộc đời khiếm khuyết”. Lẽ ra, William bị kết án 18 tháng tù. Nhờ sức ảnh hưởng của ông bà Sidis, ông được thả. Thấy con chệch khỏi con đường trở thành thiên tài, cha mẹ ông tăng cường kiểm soát, theo dõi và cấm đoán ông giao lưu kết bạn với những người lạ. Cha ông có quyết định sai lầm khi đưa ông vào viện điều trị tâm thần hơn một năm.

Chán nản với cuộc sống gò bó do cha mẹ áp đặt, William liên tục chuyển chỗ ở, công việc và đổi tên để tránh sự theo dõi từ truyền thông. Trong thời gian này, ông viết hàng chục cuốn sách dưới nhiều bút danh, bao gồm về lịch sử nước Mỹ và sở thích sưu tầm vé xe. Ngoài ra, William xuất bản sách về vũ trụ học, đưa ra dự đoán về hố đen. Cuốn sách không được giới học giả đánh giá cao. Cuộc sống tách biệt giúp William cảm thấy tốt hơn. Ông thích cảm giác cô độc và không hề liên lạc với gia đình hay bất cứ ai thực sự quan tâm ông.

Năm 1924, sự bình yên hiếm hoi ấy bị phá vỡ khi báo chí lần ra tung tích thần đồng ngày nào. Họ đưa loạt bài về công việc tầm thường cùng cảnh sống khốn khổ của người có IQ cao nhất thế giới. Điều này khiến William xấu hổ và trầm cảm, nó đẩy ông lún dần vào cuộc đời tối tăm. Báo chí tiếp tục khai thác đề tài được dư luận quan tâm này. Năm 1937, tờ New Yorker đăng bài April Fool, miêu tả quá trình William rơi từ đỉnh cao danh vọng tới cuộc sống khốn khổ, bị nhục mạ. Sau đó, gia đình Sidis khởi kiện tờ báo. Vụ kiện được giải quyết vào 7 năm sau nhưng những tổn thương nó gây ra cho thần đồng đã không thể vãn hồi. Tháng 7/1944, William đột quỵ trong căn hộ nhỏ thuê ở Boston. Ông không bao giờ tỉnh lại nữa. Người đàn ông sở hữu IQ cao nhất thế giới qua đời ở tuổi 46, chỉ có bức ảnh bà Martha Foley được đặt trong ví làm bạn với ông trong những ngày cuối đời và còn mấy đồng xu lẻ.

Sau khi William qua đời, cô em gái của ông tuyên bố về chỉ số thông minh của anh trai, nó được ghi trong cuốn sách Psychology for the Millions của Abraham Sperling năm 1946 là “mức cao nhất từng ghi nhận”, nhưng sau đó các tác giả nhận thấy rằng một số người viết tiểu sử về William, như Amy Wallace đã phóng đại mức độ IQ và những gì Sperling thực sự đã tuyên bố. Sperling thực ra đã viết: Helena Sidis nói với tôi rằng một vài năm trước khi qua đời, anh trai cô, Bill, đã kiểm tra trí thông minh với một nhà tâm lý học. IQ của ông là số điểm cao nhất từng ghi nhận. Về mặt chỉ số IQ, nhà tâm lý học kể lại rằng con số ước chừng sẽ là giữa khoảng 250 và 300. Cuối đời William Sidis đã làm bài kiểm tra trí thông minh tổng quát ứng tuyển vào vị trí công chức dân chính ở New York và Boston. Những điểm số phi thường của ông là chứng nhận kỷ lục.

Người ta nhận thấy rằng Helena và mẹ cô, bà Sarah thường khuếch trương danh tiếng bằng các tuyên bố phóng đại về gia đình nhà Sidis. Helena cũng tuyên bố sai rằng kỳ thi công chức dân chính mà William tham dự năm 1933 là một bài kiểm tra IQ và xếp hạng điểm số IQ là 254. Theo suy đoán về con số “254” thực chất là thứ tự tên William trên danh sách sau khi ông vượt qua kỳ thi, như ông đã nêu trong lá thư gửi cho gia đình. Cô em gái Helena cũng tuyên bố rằng “anh trai Billy biết tất cả các ngôn ngữ trên thế giới, trong khi cha tôi chỉ biết 27. Tôi luôn tự hỏi liệu có thứ gì mà anh Billy không biết không.” Tuyên bố này không được chứng thực từ bất kỳ nguồn nào ngoại trừ gia đình nhà Sidis, thêm vào đó bà Sarah Sidis cũng đưa ra một tuyên bố không tưởng trong cuốn sách The Sidis Story (1950) của bà rằng con trai William có thể học 1 ngôn ngữ chỉ trong một ngày. Ông Boris Sidis từng một lần bác bỏ các bài kiểm tra IQ là “ngu ngốc, giả tạo, vô lý và lừa dối trắng trợn”.

Cuộc đời và sự nghiệp của William Sidis, đặc biệt là những ý tưởng về thổ dân châu Mỹ, được thảo luận rộng rãi trong cuốn sách Lila: An Inquiry into Morals của Robert M. Pirsig (1991). Sidis cũng được nhắc đến trong cuốn tự truyện có tên Ex-Prodig của nhà toán học Norbert Wiener (1894-1964), cũng là một thần đồng và một người đồng niên của Sidis tại Harvard. Một tác giả Đan Mạch là Morten Brask đã viết một cuốn tiểu thuyết hư cấu dựa trên cuộc đời của Sidis; The Perfect Life of William Sidis được xuất bản ở Đan Mạch vào năm 2011. Một cuốn tiểu thuyết khác dựa trên tiểu sử của William đã được xuất bản bởi tác giả Đức Klaus Cäsar Zehrer năm 2017.

Cuộc tranh luận về cách thức nuôi dạy của gia đình Sidis đã diễn ra tại một buổi tọa đàm cởi mở về cách thức tốt nhất để giáo dục trẻ em. Các tờ báo chỉ trích phương pháp nuôi dạy con của ông Boris Sidis. Hầu hết các nhà giáo dục hôm đó đều cho rằng các trường học nên cho trẻ nhỏ tiếp xúc với trải nghiệm đời thường để nuôi dưỡng trẻ thành người công dân có ích. Hầu hết các nhà tâm lý học cho rằng trí thông minh là di truyền, một quan điểm hướng tới xóa bỏ giáo dục mầm non tại nhà. Những khó khăn mà William gặp phải trong việc ứng phó với môi trường xã hội khi bắt đầu vào đại học có thể đã tạo quan điểm không nên cho phép những đứa trẻ thần đồng bước chân vào đại học quá sớm trong thời của William. Nghiên cứu thì chỉ ra rằng một chương trình giáo dục mang tính kích thích có thể hạn chế bớt những khó khăn về mặt xã hội và cảm xúc mà trẻ thiên tài thường gặp phải. Đi theo những phát hiện này, một vài trường đại học hiện nay có các thủ tục với nhập học sớm. Viện Nghiên cứu Phát triển Tài năng sớm Davidson đã phát triển một sách hướng dẫn về chủ đề này.

Hình dưới: Sidis tại lễ tốt nghiệp ở Đại học Harvard (1914).

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *