Võ Tánh hay Võ Tính (1768 – 1801) người gốc Biên Hòa, sau dời về huyện Bình Dương thuộc Phiên Trấn (nay là TP HCM) là một danh tướng của chúa Nguyễn Ánh, đương thời ông cùng Đỗ Thành Nhơn và Châu Văn Tiếp được xưng tụng là Gia Định tam hùng. Cũng như Trần Quang Diệu là người trung thành với nhà Tây Sơn từ khi khởi nghĩa đến lúc thất thế, thì Võ Tánh đã cống hiến cả cuộc đời ông và hy sinh tính mạng của ông cho sự phục hưng của cơ nghiệp của chúa Nguyễn Ánh. Và cả hai ông Quang Diệu và Võ Tánh dù đối địch vẫn dành cho nhau sự kính trọng hết mực.
Năm 1799, Võ Tánh theo chúa Nguyễn Ánh tiến đánh thành Quy Nhơn. Tướng Tây Sơn là Lê Văn Thanh phải mở cửa thành xin hàng. Chiếm được thành, chúa Nguyễn đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định. Sau đó, giao cho Võ Tánh và Lễ bộ tham tri Ngô Tùng Châu trấn giữ rồi cho rút đại quân về Gia Định.
Năm 1800, Trần Quang Diệu sau khi dẹp hết bọn nịnh thần trong triều liền cùng Vũ Văn Dũng tiến quân lấy lại thành Bình Định. Quân chia làm thuỷ bộ, Trần Quang Diệu chỉ huy bộ 5 vạn, Vũ Văn Dũng chỉ huy thuỷ quân 2,4 vạn. Trần Quang Diệu cho quân đánh thành Bình Định, Võ Tánh đưa quân chống lại nhưng vì yếu hơn nên phải cho quân vào trong thành cố thủ. Thành Bình Định dễ thủ, khó công nên Trần Quang Diệu không cho quân đánh vào trong thành mà vây bên ngoài chờ quân Nguyễn hết lương tất đầu hàng. Trần Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành, chu vi lên tới 4000 trượng và chia quân vây bốn mặt, Võ Văn Dũng thì đôn đốc thủy quân phòng giữ cửa Thị Nại.
Nguyễn Ánh cùng Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy đem đại binh ra tìm cách giải vây cho Bình Định, đại thắng thủy quân Tây Sơn tại Thị Nại. Lúc này Nguyễn Văn Thành nhắc Nguyễn Phúc Ánh về kế” thí xe bắt tướng” đã bàn từ trước là tạm thời bỏ qua thành Bình Định mà tiến thẳng ra Phú Xuân. Nhưng Nguyễn Ánh không muốn bỏ rơi Võ Tánh nên cho quân lên giải vây thành Bình Định.
Quân Tây Sơn từ trên cao đặt các trọng pháo bắn xuống ngăn quân Nguyễn, dù Nguyễn Phúc Ánh đã cố vài lần cho quân tiến lên nhưng lần nào cũng bị đẩy lùi. Lúc này, thành Bình Định cũng bị vây hơn 1 năm, Trần Quang Diệu cũng muốn kết thúc nhanh nên vây thành rất chặt, cắt mọi đường tiếp tế, tình thế hết sức nguy ngập, binh sĩ hết lương không còn sức lực để trụ thêm nữa.
Nguyễn Ánh đương đêm cho người vượt thành đem mật thư vào thành lệnh cho Võ Tánh phải bỏ thành trốn ra, nhưng Võ Tánh lại biên thư khác ra cho Nguyễn Phúc Ánh khuyên ông phải chớp thời cơ kéo quân ra đánh Phú Xuân, để ông cùng Ngô Tùng Châu cố giữ thành cầm chân quân Tây Sơn. Võ Tánh nỗ lực cố thủ trong thành, trong nhiều giờ phút hiểm nghèo vẫn nghĩ đến đại sự chứ không lo cho bản thân mình, khuyên chủ tướng không cần cứu mình mà chiếm lấy Phú Xuân, quả là hiếm có.
Nguyễn Ánh nhận được thư liền cùng các tướng họp trên soái hạm, nhiều người bàn nên cho quân đánh Phú Xuân trước, cứu thành Bình Định sau. Tuy nhiên Nguyễn Ánh không đồng ý:” Võ Tánh theo ta từ ngày đầu lập nghiệp, trải qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ, nay nghiệp lớn chưa thành, một ngày vinh hoa chưa hưởng. Ta đi đồng nghĩa với việc đưa Võ Tánh vào chổ chết, sau này làm sao có thể ngẩng mặt nhìn thiên hạ mà trị vì?”
Tả quân Lê Văn Duyệt thay mặt các chủ tướng đứng ra can ngăn rằng:” Là tướng võ, mong muốn của Võ Tánh là được chết theo thành, nhờ đó xoay chuyển đại cuộc. Nay nếu thánh thượng vì cứu Võ Tánh mà đi sâu vào giao chiến với đại binh Tây Sơn, cứu được Võ Tánh rồi, không biết đến bao giờ chiến tranh mới kết thúc. Một đằng được chết cho non sông vươn lên, một đằng vì sự sống của mình mà kéo dài chiến tranh. Liệu rằng điều đó có công bằng cho Võ Tánh? Xin thánh thượng lắng nghe lời Võ Tánh: người là thiên tử, nhất định phải gạt bỏ tình riêng mà vì thiên hạ.” Cuối cùng Nguyễn Ánh giao cho Trần Quang Thành ở lại kiềm chân Trần Quang Diệu với hy vọng mong manh sau khi chiếm được Phú Xuân thì sẽ quay lại cứu Võ Tánh.
Tháng 6/1801 thuỷ binh Nguyễn rời Thị Nại tiến đánh Phú Xuân. Trước khi đi Nguyễn Ánh hướng đến thành Bình Định, quỳ gối chấp tay lạy, chứng kiến cảnh này ai cũng thấy ngậm ngùi.
Thành Bình Định lúc này cũng bị kiệt quệ, trong thành hết sạch lương ăn, Võ Tánh cho quân sĩ làm thịt voi ngựa mà ăn. Có người khuyên mở đường máu vượt vòng vây mà ra nhưng ông cương quyết ở lại: “Không thể được. Ta phụng mạng giữ thành này, nên thề với thành cùng sống chết. Nếu bỏ thành mà hèn nhát trốn lấy một mình, thì sau này còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng?”.
Lúc này quân sĩ lớp thì chết lớp thì nằm ngổn ngang, Võ Tánh ứa nước mắt nói rằng:” Các ngươi chớ lo, ta đã có kế, ngày mai các ngươi sẽ có gạo mà ăn. Võ Tánh viết thư rồi sai người trao cho Trần Quang Diệu, nói rằng: “phận sự ta làm chủ tướng thì đành liều chết ở dưới cờ. Chỉ một mong muốn sau cùng, anh em binh sĩ không có tội tình gì, xin ngài hãy vì đức lớn mà đừng làm hại, cũng như ngày trước khi chiếm được thành Quy Nhơn, quân Nguyễn đã không giết hại những binh sĩ Tây Sơn giữ thành”. Xong, ông sai thuộc hạ lấy rơm củi chất dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào châm ngòi tự hỏa thiêu. Ngô Tùng Châu cũng dùng thuốc độc tự vẫn.
Đọc xong thư, Trần Quang Diệu sai người phát lương thực cho hàng binh và mai táng Võ Tánh theo nghi thức dành cho bậc công thần. Lễ mai táng có cả quân sĩ hai bên rất nghiêm trang, Trần Quang Diệu bước đến bên linh cữu Võ Tánh rồi cúi đầu từ biệt vị tướng trung dũng phe đối địch.
Sau lễ mai táng, Trần Quang Diệu cho tập hợp hơn 1 vạn binh ở bãi cát bên cửa Thị Nại và tha mạng hết cho họ, không hại một ai. Các binh lính này khi được tha mạng thì đều về quê, không ai gia nhập lại quân Nguyễn chống Tây Sơn. Thương cảm cho Võ tướng quân, dân Bình Định có câu ca: “Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên/ Cảm thương quan Hậu thủ thành ba năm”
Năm 1802, nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu Gia Long. Ông phong cho Võ Tánh tước Quốc công, bài vị cũng được đặc cách thờ tại Thế Miếu nơi chỉ dành riêng cho hoàng tộc.
Ảnh: Ấm chè
-Đại Nam thực lục-
-Sách Việt Nam Sử Lược-
-Tây Sơn bi hùng truyện-
-Hoàng Việt Long Hưng Chí-