Căng Thẳng Ở Đông Á Góc Nhìn Của Học Giả Phương Tây – Phần I: Sự kiện quấy rối tàu USNS Impeccable (2009)

Căng Thẳng Ở Đông Á Góc Nhìn Của Học Giả Phương Tây Phần I: Sự kiện quấy rối tàu USNS Impeccable (2009)
Các bài viết sau đây sẽ cho thấy quan điểm, góc nhìn của các học giả phương Tây (tác giả toàn là Tây thì vậy là đúng roài) về những tranh chấp tại các vùng biển của Châu Á (giữa các nước Đông Á vs Tàu) sau đây xin giới thiệu với các bạn một số bài liên quan trực tiếp đến vấn đề biển Đông (ảnh hưởng tới bạn và tui).
Bắt đầu
Trong thập kỷ qua, căng thẳng ở châu Á đã tăng lên khi Bắc Kinh trở nên quyết đoán hơn trong các tranh chấp hàng hải với các nước láng giềng và Hoa Kỳ. Các nhà lãnh đạo khu vực đã bày tỏ lo ngại rằng việc áp đặt các vùng xám của Trung Quốc đe dọa làm mất ổn định khu vực bằng cách phá hoại trật tự, quy tắc và làm tăng nguy cơ xung đột. Tuy nhiên, bất chấp mối đe dọa đối với an ninh và thịnh vượng khu vực, Hoa Kỳ, đồng minh của Hoa Kỳ và đối tác ở Đông Á đã cố gắng phát triển hiệu quả chống cưỡng bức, hạn chế hàng hải. Sự bất lực của các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ trong việc ngăn chặn các hành động cưỡng chế hoặc đưa ra một chiến lược mạch lạc về vùng xám đã đặt ra câu hỏi về khả năng bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ, để đưa Trung Quốc vào trật tự quốc tế và duy trì các cam kết liên minh hiện có. Do đó, các chuyên gia ở Hoa Kỳ và ở Đông Á đang tìm kiếm các phương pháp mới để chống lại sự cưỡng chế hàng hải ở Biển Đông.
Lĩnh vực nghiên ghiên cứu mới của CSIS, Chống cưỡng chế Hàng hải ở châu Á: Lý thuyết và thực tế răn đe khu vực xám (Gray zone), xem xét tài liệu học thuật về răn đe, các sự cố gần đây của các vụ việc cưỡng chế vùng xám và rút ra bài học cho các nhà hoạch định chính sách. Các tác giả hy vọng rằng phân tích này sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc cho các nhà lãnh đạo hiện tại và tương lai ở Hoa Kỳ và Đông Á về cách tăng cường an ninh khu vực và trật tự quốc tế trong những năm tới.
Bao gồm 9 vấn đề nghiên cứu sau:
1. Vụ việc quấy rối tàu USNS Impeccable (2009).
2. Va chảm tàu cá ở quẩn đảo Senkaku (2010).
3. Bế tắc bãi cạn Scarborou (2012)
4. Khủng hoảng quốc hữu hóa quần đảo Senkaku (2012)
5. Khu vực nhận dạng phòng không trên biển Đông Trung Hoa (2013)
6. Sự cố Thomas Shoal lần thứ hai (2014)
7. Bế tắc giàn khoan dầu khí Trung Quốc-Việt Nam (2014)
8. Sự cố “Top Gun” (2014)
9. Cải tạo mở rộng đảo ở quần đảo Trường Sa (2013)
Tìm hiều về tác giả nào:
Michael Jonathan Green: là phó chủ tịch cấp cao về Châu Á và Nhật Bản của CSIS và là phó giáo sư tại Trường Quan hệ quốc tế Edmund A. Walsh tại Đại học Georgetown. Ông là thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) từ năm 2001 đến năm 2005, đầu tiên là giám đốc về các vấn đề châu Á, và sau đó là trợ lý đặc biệt cho tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia và giám đốc cấp cao ở châu Á.
Kathleen Hicks: là phó chủ tịch cấp cao, giám đốc Chương trình An ninh Quốc tế tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.
Zack Cooper: là một nghiên cứu viên tại Viện Doanh nghiệp Mỹ. Trước đây, ông là thành viên cao cấp về an ninh châu Á tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế. Ông cũng đã phục vụ trong đội ngũ nhân viên tại Hội đồng An ninh Quốc gia và Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng. Ông nhận bằng cử nhân từ Đại học Stanford và bằng MPA, MA, và Ph.D từ Đại học Princeton (ghê ah nha).
John Schaus: là thành viên của Chương trình An ninh Quốc tế CSIS, nơi ông tập trung vào các thách thức an ninh quốc phòng và châu Á. Các lĩnh vực nghiên cứu của ông bao gồm các vấn đề an ninh châu Á-Thái Bình Dương và chính sách và công nghiệp quốc phòng của Hoa Kỳ. Trước khi gia nhập CSIS vào tháng 7 năm 2014, ông đã làm việc tại Văn phòng các vấn đề an ninh châu Á và Thái Bình Dương trong Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Jake Douglas: là trợ lý nghiên cứu về Nhật Bản tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.
Phần I: Sự kiện quấy rối tàu USNS Impeccable (2009)
Bài đăng này tóm tắt một trong chín nghiên cứu điển hình trong báo cáo mới của CSIS.
Lời của người tổng hợp.
Innocent Passage- Đi qua vô hại là một quyền cơ bản trong Công ước về luật biển 1982 – UNCLOS. Các tàu có quyền di chuyển “vô hại” liên tục qua vùng biển có chủ quyền của các quốc gia ven biển bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng nội thủy.
Hoa Kỳ nằm trong nhóm các quốc gia không tham gia UNCLOS. Từ lâu Hoa Kỳ từ lâu đã duy trì, đảm bảo rằng tự do hàng hải cho các tàu của mình kể cả tàu quân sự trong các vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý (EEZ) của các nước khác việc Hoa Kỳ cho tàu đi vào khu vực 12 hải lý các đảo ở Trường Sa là một ví dụ.
Với UNCLOS, Trung Quốc tham gia đàm phán từ năm 1973 đến 1982, và phê chuẩn vào năm 1996. Tuy nhiên, Trung Quốc cùng với nhiều quốc gia khác không đồng ý với tuyên bố rằng tự do hàng hải trong các đặc khu kinh tế là tuyệt đối và đã đặt ra các hạn chế đối với các hoạt động của tàu quân sự và máy bay nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Các hoạt động quân sự tại các đặc khu kinh tế là một vấn đề gây tranh cãi trong các cuộc đàm phán về Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) và tiếp tục như vậy trong thực tiễn. Một số quốc gia ven biển cho rằng các quốc gia khác không thể thực hiện các cuộc tập trận quân sự hoặc các hoạt động khác trong hoặc trên vùng đặc quyền kinh tế của họ mà không có sự đồng ý của họ. Những quốc gia này bao gồm Bangladesh, Brazil, Cape Verde, Ấn Độ, Pakistan, Malaysia, Myanmar, Uruguay và thậm chí là đồng minh của Mỹ, Thái Lan./. (ký thì ký, còn triển khai thế nào là quyền của anh)
Hết lời người tổng hợp.
Hoa Kỳ và Trung Quốc từ lâu đã không có sự thống nhất về sự cho phép một số hoạt động hải quân của Hoa Kỳ dọc theo ngoại vi hàng hải của Trung Quốc. Trung Quốc và một số ít các quốc gia ven biển khác khẳng định quyền cấm các cuộc tập trận và trinh sát của quân đội nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (EEZ). Bắc Kinh cũng yêu cầu hải quân nước ngoài phải xin phép trước khi đi qua lãnh hải Trung Quốc. Tuy nhiên, Washington bác bỏ những yêu cầu này. Phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), Hoa Kỳ tin rằng Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để hạn chế việc thực thi quyền tự do hàng hải và hàng không. Những quan điểm khác nhau là một nguồn cơn quá trình căng thẳng dai dẳng. Trong những năm gần đây, các lực lượng Trung Quốc đã định kỳ đối đầu và thậm chí quấy rối các lực lượng của Hoa Kỳ hoạt động trong hoặc ngoài vùng biển và không phận có chủ quyền của Trung Quốc, đôi khi gây ra các sự cố nguy hiểm trên biển. Một cuộc đụng độ như vậy xảy ra vào tháng 3 năm 2009.
Vào ngày 08 tháng 3 năm 2009, năm tàu Trung Quốc bao quanh tàu USNS Impeccable 75 dặm về phía nam của đảo Hải Nam ở Biển Đông (gốc – South China Sea). Impeccable là tàu khảo sát đại dương dân sự – vận hành không vũ trang thuộc Bộ Tư lệnh hải vận – Military Sealift Command (MSC). Người ta tin rằng con tàu đã thực hiện các cuộc khảo sát thủy văn liên quan đến căn cứ tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo Du Lâm (Yulin) của Trung Quốc vào thời điểm đó. Sau khi Trung Quốc yêu cầu tàu Hoa Kỳ rời khỏi khu vực khảo sát hoặc là nhận hậu quả, tàu Impeccable (cùng với một tàu chị em đang hoạt động trên biển Hoàng Hải, USNS Victorious) đã bị tàu và máy bay Trung Quốc xua đuổi dẫn đến sự cố.
Các hoạt động quấy rối được thự hiện vào ngày mồng 8 tháng 3 (chọn ngày hợp lý ghê) được ra chỉ đạo bởi chỉ huy Kiểm ngư Trung Quốc (FLEC). Một tàu tình báo của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), một tàu tuần tra của Kiểm ngư FLEC và Hải cảnh Trung Quốc (CMS) tham gia khi hai tàu đánh cá treo cờ Trung Quốc tiến vào và quấy rối tàu Impeccable. Hai tàu này nhanh chóng nhắm vào thiết bị sonar thủy âm. Một tàu đánh cá cố gắng cắt ngang thiết bị ở dưới nước. Khi thất bại, các ngư dân Trung Quốc đã thử sử dụng những chiếc gậy dài có móc. Impeccable cảm nhận áp lựcđòi hỏi phải sử dụng vòi phun nước áp lực cao để đáp trả.
Lo ngại trước những chiến thuật hung hăng, thuyền trưởng tàu Impeccable quết định rút lui và yêu cầu các tàu Trung Quốc mở một con đường đi ra. Tuy nhiên, ngay sau đó, hai tàu đánh cá Trung Quốc đã đột ngột dừng lại trước chiếc Impeccable và thả những mảnh gỗ xuống nước để chặn lối ra. Tàu Hoa Kỳ đã buộc phải ra lệnh dừng khẩn cấp để tránh va chạm. Một tàu Hải cảnh CMS cũng di chuyển cản trở tàu Impeccable, chỉ dừng lại khi 2 tàu cách nhau vài chục feet. Tàu Hải quân PLA cũng có động thái tượng tự, di chuyển cách mạn trái tàu Impeccable vài trăm feet. Chỉ sau một loạt hành động đe dọa này tàu Hoa Kỳ mới được phép rời đi.
Nhà Trắng đã nhanh chóng đưa thông cáo về vụ việc. Evan Medeiros, giám đốc Hội đồng An Ninh quốc gia phụ trách Trung Quốc lúc bấy giờ tuyên bố rằng: các hoạch định chính sách của Hoa Kỳ là không rõ ràng về việc liệu những hành động này có phản ánh một nỗ lực có chủ ý của [chủ tịch Trung Quốc] Hồ Cẩm Đào để kiểm tra Hoa Kỳ giải quyết sớm vấn đề của chính quyền mới của Obama. Dù không chắc chắn, họ kết luận rằng, “có đủ yếu tố ở đó để họ dừng lại, bạn phải gửi một tín hiệu cực kỳ rõ ràng”. Vào ngày 9 tháng 3, Bộ Quốc phòng đã công khai hành vi hung hăng và thiếu chuyên nghiệp của Trung Quốc và cáo buộc Bắc Kinh đã bỏ qua các nghĩa vụ của mình theo UNCLOS. Các quan chức cũng nhấn mạnh tính hợp pháp của các hoạt động thường ngày của Hoa Kỳ tại khu vực quốc tế.
Người phát ngôn của Trung Quốc đã phản ứng, đưa ra những lời chỉ trích của riêng họ về hành vi và chính sách của Hoa Kỳ. Thay vì tranh chấp các chi tiết thực tế của vụ việc, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lập luận rằng chính Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và nội địa của Trung Quốc bằng cách tham gia các hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc ở Biển Đông mà không có sự cho phép của Trung Quốc. Bộ Quốc phòng Trung Quốc biện minh cho hành vi quấy rối là ‘’hoạt động bình thường của cơ quan hành pháp’’. Trung Quốc kêu gọi Washington tôn trọng lợi ích hợp pháp và mối quan tâm an ninh của Bắc Kinh. Một vài tiếng nói gần gũi với Bắc Kinh cho rằng hải quân nước ngoài chỉ được hưởng quyền đi qua vô hại – Innocent Passage ở vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc EEZ và tàu Impeccable đã đến gần quá gần với bờ biển Trung Quốc lần này so với các nhiệm vụ trước đây. Mặc dù vậy, theo một quan chức hàng đầu của Hải quân PLA, Bắc Kinh sẽ không để vụ việc làm trật bánh quan hệ quân sự song phương nói chung.
Vào ngày 11 và 12 tháng 3, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì đã gặp Ngoại trưởng Hillary Clinton, Cố vấn An ninh Quốc gia, Tướng James Jones, và Tổng thống Barack Obama tại Washington. Theo Ngoại trưởng Clinton, hai bên đã có những trao đổi tương xứng về sự cố Impeccable và đồng ý làm việc với nhau để đảm bảo rằng những sự cố như vậy sẽ không xảy ra lần nữa. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng công khai quy trách nhiệm tránh các cuộc đối đầu trong tương lai cho Washington.
Hoa Kỳ đã triển khai tàu khu trục tên lửa dẫn đường, USS Chung-Hoon, đến Biển Đông (gốc- SouthChinaSea) cùng lúc với các cuộc đàm phán cấp cao này. Lầu Năm Góc thông báo với các phóng viên rằng khu trục hạm sẽ theo các tàu đối phương, khi các tàu quay trở lại vị trí ban đầu để tiếp tục nhiệm vụ khảo sát dưới biển. Phát biểu một tuần sau đó, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates ám chỉ rằng những tàu hộ tống có vũ trang như vậy có thể trở thành thông lệ tiêu chuẩn nếu tình trạng quấy rối của Trung Quốc tiếp tục. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo quân sự cho thấy mong muốn vượt qua khủng hoảng, dành thời gian cho các vấn đề hợp tác chống cướp biển ở Vịnh Aden.
Các quan chức Trung Quốc theo dõi chặt chẽ tín hiệu của cuộc khủng hoảng. Vào ngày 20 tháng 3, truyền thông nhà nước đã đăng một bài báo bất thường thông báo rằng quân đội Trung Quốc đã sẵn sàng kêu gọi chấm dứt cuộc đình chiến. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Bắc Kinh đã thay đổi quan điểm về các nhiệm vụ giám sát của Hoa Kỳ dọc theo ngoại vi hàng hải. Chỉ một tháng sau, các tàu đánh cá dân sự Trung Quốc lại quấy rối tàu USNS Victorious khi nó đang tiến hành trinh sát trên biển Hoàng Hải.
Một số kết luận quan trọng có thể được rút ra về sự cố Impeccable có ý nghĩa đối với các cuộc chạm trán trên biển và trên không đầy rủi ro khác ở Tây Thái Bình Dương.
– Thứ nhất, vụ việc bắt nguồn từ những quan điểm khác nhau về những gì không (hoặc nên) trong luật quốc tế. Ngay cả khi không có bất đồng nào về thực tế, Washington và Bắc Kinh vẫn có thể tranh chấp, nguyên nhân cơ bản của các cuộc đối đầu đầy rủi ro.
– Thứ hai, chiến dịch quấy rối rõ ràng đã được dự tính trước và phối hợp tốt. Giống như sự cố EP-3 năm 2001 xảy ra ngay sau khi George W. Bush đảm nhận chức tổng thống, hành động khiêu khích này có thể là một nỗ lực nhằm thăm dò quyết định của chính quyền Obama.
– Thứ ba, mặc dù Hải quân PLA cũng như các cơ quan thực thi pháp luật tham gia trong sự cố, ngư dân dân sự đóng vai trò là một dân quân biển chịu trách nhiệm cho các hành vi quấy rối nghiêm trọng nhất.
– Thứ tư, Bắc Kinh đã xuống thang trong thời gian ngắn sau khi Washington thể hiện sự sẵn sàng leo thang căng thẳng. Tuy nhiên, các lực lượng Trung Quốc tiếp tục quấy rối tàu và máy bay của Hoa Kỳ trong những tháng và năm tiếp theo. Mặc dù những sự cố này gây ra những nguy hiểm, lịch sử cho thấy chúng ít có khả năng gây ra một cuộc xung đột hoàn toàn diện hơn là những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.
_____________________
Bạn đã có thể truy cập link góc ở đây:
https://amti.csis.org/countering-coercion-hub/
https://amti.csis.org/counter-co-harassment-usns-impeccable/




Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *