Bác sĩ Nguyễn Việt Hà (Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai) cho biết, bác sĩ vừa điều trị cho 1 bé gái 15 tuổi với hai cánh tay dày đặc các vết dao lam cứa do chính cô bé tự làm hại bản thân.
Rạch tay tự làm hại bản thân để tìm sự giải thoát khi căng thẳng
Khai thác bệnh sử cho thấy, bệnh nhân lớn lên trong gia đình có bạo lực gia đình. Bố làm lao động tự do, mẹ là giáo viên. Cha đánh mẹ nhiều lần dưới sự chứng kiến của em, điều khiến em kể lại với bác sĩ là “những ký ức không bao giờ quên”.
Cha mẹ T cũng mải làm ăn nên không quan tâm đến cảm xúc của con cái. Càng lớn, T càng sống thu mình, ít nói, khó hòa nhập. Ở trường, em bị bạn bè trêu chọc, cô lập vì tính cách nhút nhát. Sự cô đơn kéo dài khiến em tìm đến các diễn đàn trên mạng, nơi thảo luận về căng thẳng và tự gây thương tích.
Những vết rạch nhằng nhịt trên tay chân bệnh nhân. Ảnh BVCC
Ban đầu em rất sợ việc tự dùng dao rạch tay mình, tuy nhiên em vẫn mua dao lam và để sẵn trong phòng. Em thường xuyên suy nghĩ về nó. “Giọt nước tràn ly” khiến T có hành vi tự làm hại mình là khi bị điểm kém trong kỳ thi giữa kỳ năm lớp 8 và bị mẹ mắng nặng lời.
“Em thấy thất bại, tức giận dâng trào, khiến em căng thẳng không thể chịu đựng được nữa. Em đã lấy chiếc dao lam đã chuẩn bị sẵn và không do dự, bắt đầu thử rạch lên cánh tay của mình. Em cảm thấy mình không những không đau mà còn đỡ căng thẳng, nhẹ nhõm hơn sau khi thực hiện việc đó”, T chia sẻ với bác sĩ.
Sau lần đó, T bắt đầu liên kết việc tự rạch tay với sự giải thoát cảm xúc. Những kích thích liên quan (như chiếc dao lam, vết rạch, chút máu) trở thành tín hiệu tích cực trong tâm trí T, thay vì đáng sợ như trước đây. Khoảng nửa năm gần đây, tâm trạng T. trở nên trầm trọng hơn. Dù chỉ hơi căng thẳng em đã rạch tay.
Do em thường xuyên mặc áo dài nên đã che giấu được vết thương. Tuy nhiên, khi bệnh nhân trốn trong nhà vệ sinh để rạch tay, bạn bè phát hiện và báo với thầy cô. Nhà trường liên hệ gia đình, đưa bệnh nhân đến Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai.
Sau quá trình thăm khám, bác sĩ chẩn đoán T. mắc trầm cảm nặng không có triệu chứng loạn thần, kèm theo hành vi tự gây thương tích và ý tưởng tự sát.
Mục đích của hành vi tự gây thương tích không phải là để tự sát mà thường để giảm sự đau buồn, giảm suy nghĩa hoặc cảm xúc tiêu cực, căng thẳng (Vểt thương tự làm hại bản thân của thiếu nữ 15 tuổi. Ảnh BVCC)
Tại Viện Sức khỏe tâm thần, T. được điều trị tích cực bằng thuốc chống trầm cảm, thuốc giải lo âu kết hợp với các liệu pháp tâm lý. Liệu pháp nhận thức hành vi giúp T. thay đổi suy nghĩ tiêu cực, học cách kiểm soát cảm xúc thay vì tự làm đau bản thân.
Bệnh nhân cũng được hướng dẫn kỹ năng hòa nhập xã hội để giảm sự cô lập. Liệu pháp gia đình giúp bố mẹ hiểu rõ tình trạng của T., khuyến khích giao tiếp cởi mở và xây dựng sự gắn kết.
Đôi khi trẻ em tự làm hại bản thân “để cảm nhận một cảm giác gì đó, ngay cả khi nó đau đớn”
Bác sĩ Ngô Văn Tuất, Viện Sức khỏe Tâm thần, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2024, Viện đã tiếp nhận 130 – 140 trường hợp bệnh nhân trẻ vị thành niên có hành vi trên, đặc biệt trước giai đoạn chuẩn bị thi và sau khi thi số trẻ vị thành niên nhập viện vì hành vi tự làm tổn thương bản thân lại gia tăng.
Đáng chú ý, có trường hợp 6-7 em cùng lớp hoặc cùng chơi với nhau, rủ nhau tự làm tổn thương bản thân và cùng được gia đình đưa vào viện.
Theo bác sĩ Nguyễn Hoàng Yến, Viện Sức khỏe Tâm thần, những hành vi tự làm tổn thương bản thân ở vị thành niên là hành vi do bệnh nhân chủ định gây ra, từ vết cào, cấu, cắt, véo.. đến thâm tím, sẹo chằng chịt trên cơ thể.
Các bệnh nhân thường có cảm xúc tiêu cực trước khi thực hiện hành vi, như căng thẳng, buồn bã, chán nản. Những việc như vậy có thể xuất phát từ áp lực học đường, từ các mối quan hệ với gia đình, bạn bè hoặc việc trẻ tự tạo áp lực cho bản thân buộc mình phải trở nên hoàn hảo. Các em thường cho biết sau khi thực hiện hành vi này giúp họ thoải mái, dễ chịu, giảm căng thẳng.
“Mục đích của hành vi tự gây thương tích không phải là để tự sát mà thường để giảm sự đau buồn, giảm suy nghĩa hoặc cảm xúc tiêu cực, căng thẳng; Để tự trừng phạt hoặc trốn tránh trách nhiệm; Để thu hút sự chú ý báo hiệu sự đau khổ của bản thân đến những người quan trọng (như bố mẹ, thầy cô…); Để cảm nhận một cảm giác gì đó, ngay cả khi nó đau đớn; Để có cảm giác kiểm soát được cuộc sống”, bác sĩ Yến nói.
Bác sĩ Yến nhấn mạnh, hành vi này có thể “lây lan” giữa các nhóm bạn chơi với nhau hoặc kêu gọi nhau ở trên mạng xã hội.
Để tránh trẻ có những hành vi tự làm hại bản thân, bác sĩ Yến khuyến cáo cha mẹ nên quan tâm đến con. Ảnh minh họa AI
Theo bác sĩ Yến, hành vi tự gây ra những tổn thương trên cơ thể có thể gặp ở mọi lứa tuổi, thường xuất hiện ở lứa tuổi vị thành niên và gặp ở nữ nhiều hơn nam. Khoảng 15-20% thanh niên có hành vi tự gây thương tích có rối loạn tâm lý đi kèm.
“Những dấu hiệu có thể nhận biết trẻ có hành vi này như trên da trẻ xuất hiện các vết bầm tím bất thường, vết cào cấu da, vết thâm, vết rạch tay; trẻ hay ở lâu một mình chỗ kín như nhà tắm; thường xuyên mặc áo dài tay… Khi phát hiện các vết rạch, thường là ở mặt trong cánh tay, cẳng tay, mặt trong đùi – đây là những vùng da mỏng, trẻ cảm nhận đau dễ dàng, dễ che giấu”, bác sĩ Yến chia sẻ.
Để tránh trẻ có những hành vi tự làm hại bản thân, bác sĩ Yến khuyến cáo cha mẹ nên quan tâm đến con, nhận biết sự thay đổi về bề ngoài, cử chỉ, thói quen sống, các mối quan hệ… để kịp thời phát hiện vấn đề của con, cùng con ứng phó với stress.
“Cha mẹ cần khuyến khích trẻ tập thể dục như chạy bộ, yoga, ngồi thiền,… giúp trẻ biết cách kiểm soát cảm xúc của mình. Đặc biệt, cha mẹ cần giúp trẻ học cách giải quyết vấn đề, dạy trẻ học cách chấp nhận giới hạn của bản thân. Đồng thời cha mẹ phải tạo môi trường an toàn cho trẻ, để trẻ có thể chia sẻ cảm xúc của mình…”, bác sĩ Yến nói.