Cô giáo “cắm đảo”
Trước khi lên tàu ra đảo Thổ Chu (Kiên Giang), tôi đã được nghe kể về chị, người phụ nữ có hơn 30 năm gắn bó với đảo. Những cơ cực, gian khó mà chị đã trải qua tưởng chừng là câu chuyện của thời kỳ xa xưa. Tôi thầm ngưỡng mộ và mong mỏi sẽ được gặp chị. May mắn thay, tôi đã được toại nguyện.
Những ngày cuối năm Giáp Thìn, tôi được nhập đoàn với đoàn của Bộ Tư lệnh Vùng 5 Hải quân đi thăm, động viên và chúc Tết các cán bộ chiến sĩ tại vùng biển đảo Tây Nam của Tổ quốc. Tôi háo hức hỏi lãnh đạo đoàn, hành trình có qua đảo Thổ Chu không. Câu trả lời “có” khiến tôi chộn rộn vui trong lòng. Ngay khi đặt chân lên đảo, tôi vội vàng nhờ người đưa đến gặp chị.
Chị tên là Hà Thị Oanh, sinh năm 1972, quê gốc ở Hải Phòng xa xôi nhưng đã có hơn 30 năm sống trên hòn đảo miền Tây Nam này. Chị lấy chồng năm 1991, đầu năm 1995, chị và cô con gái 3 tuổi theo chồng ra đảo Thổ Chu… Chồng chị là Bùi Anh Dũng, Trung tá chuyên nghiệp, sửa chữa radar Trạm 610 Trung đoàn 551, Vùng 5 Hải quân.
Chị Oanh chia sẻ: “Hồi mới ra tôi chưa quen cuộc sống trên đảo nên đêm nào cũng khóc, vì nhớ nhà, nhớ đất liền. 20 ngày đầu, mẹ con tôi phải ở nhờ căn phòng nhỏ của đơn vị chồng. Sau đó, anh em đơn vị đã phụ giúp vợ chồng tôi dựng căn nhà cấp 4. Đảo Thổ Chu lúc này hoang sơ lắm, dân cư còn thưa thớt, nhà ở toàn là tạm bợ, nhà tiền chế, đi lại khó khăn… Bấy giờ cũng chưa có sóng điện thoại, chưa có internet. Chỉ một số nhà có điện thoại bàn, nên liên lạc với đất liền khó khăn và bất tiện vô cùng.
Có những thời điểm nhà không còn gạo để ăn, trong khi tàu vận tải cả tháng mới có một chuyến ra đảo, có khi vài tháng mới được ăn một miếng thịt. 9 tháng mang thai cháu thứ hai tôi chỉ ăn cơm với trứng vịt và rau. Ra đảo được 1 tuần thì tôi xin đến trường dạy học lớp 1. Lúc đó trường chỉ có thầy Mai Duy Bình dạy. Gọi là trường nhưng thực chất chỉ là điểm trường thuộc Trường tiểu học C An Thới với căn nhà cấp 4, hai phòng học. Lớp học thì thiếu thốn đủ thứ.
Năm 2001, trường mới được thành lập và được đặt tên là Trường Trung học Cơ sở Thổ Châu, sau đó đổi thành Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Thổ Châu”.
Chị Oanh cho biết, thời kỳ đầu chị dạy theo kinh nghiệm, kiểu cô trò cùng học. Sau đó phòng giáo dục cử chị đi học trung cấp sư phạm, hệ vừa học vừa làm.
“Tôi bắt đầu theo học từ tháng 10/1995, đây cũng là thời điểm tôi mang thai cháu thứ hai được 5 tháng rưỡi. Sau khi sinh xong, cứ đến hè tôi lại bế con nhỏ vào đất liền để học, rồi hết hè lại về, kẽo kẹt mẹ con bế nhau như vậy trong 4 năm trời. Tôi tiếp tục học lên cử nhân cho đến năm 2005 thì hoàn thành. Vậy là 10 năm tôi hoàn thành sự phạm…”, chị Oanh nói.
Nhớ lại thời gian đầu đi học, chị Oanh lặng đi một lúc: “Ngày đó tàu chưa hiện đại như bây giờ, mỗi lần đi về Phú Quốc là mất 8 tiếng, từ Phú Quốc về Rạch Giá là mất 8 tiếng, nếu đi cả hành trình sẽ là 16 tiếng, còn có những lần phải đi theo tàu cá thì mất từ 20 đến 24 tiếng, gian truân lắm…
Tôi có một kỷ niệm đáng nhớ là lần tôi từ đảo về Phú Quốc, khi trung chuyển từ tàu xuống xuồng thì bị lật. Tôi không biết bơi nên bị chìm, may giỏ quần áo của tôi nổi lên, mọi người hô hoán nhảy xuống túm tóc kéo tôi lên. Mọi người kể lại thời điểm đó tôi như đã chết. Có người còn điện thoại về cho chồng tôi nói vợ ông bị chết đuối rồi. Cả nhà hoảng loạn. Được cứu sống nhưng sau sự cố đó tôi bị ám ảnh cả năm trời, đến giờ nhìn thấy con tàu có số hiệu 94 là không dám lên…”.
Vất vả là vậy nhưng chị vẫn bám trụ tại đảo vì chị trót yêu thương học sinh của mình, trót coi Thổ Chu là quê hương thứ hai. Chị Oanh nói: “Trong số các em học sinh ở đảo tôi thương nhất hai em Phạm Khánh Ngọc và Phạm Gia Tuệ, hai trường hợp rất đáng thương. Bố mẹ ly hôn nên ở với bà ngoại tại bè cá, chứ không có nhà ở trên đảo. Mẹ bỏ đi, ba thì xây dựng gia đình mới. Mỗi lần gần đến năm học tôi lại xuống vận động các cháu đi học, mua sách vở, đồ dùng học tập… Hiện tại một cháu học lớp 7, một cháu học lớp 4”.
Chị Oanh vui mừng cho biết, có nhiều em học sinh của chị thành đạt đi làm trong đất liền, cũng có em quay trở về đảo làm trong bộ máy chính quyền, một số lại làm giáo viên và trở thành đồng nghiệp của chị. Hiện chị Hà Thị Oanh đang là Phó Hiệu trưởng phụ trách Trường Tiểu học và THCS Thổ Châu.
Thương học trò nghèo, chịu nhiều thiệt thòi
Tương tự như đảo Thổ Chu tại đảo Hòn Đốc, đảo Nam Du ở Kiên Giang, những câu chuyện về thầy cô giáo “cắm đảo” đem đến cho tôi nhiều cảm xúc. Thầy Danh Văn (34 tuổi, dân tộc Khmer, quê ở huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang) có hơn 10 năm dạy điểm lẻ Hòn Đước thuộc cụm đảo Hòn Đốc hay còn gọi là Hải Tặc, xã Tiên Hải, TP.Hà Tiên, Kiên Giang.
Là người gắn bó lâu năm với đảo, thầy Danh Văn hiểu cuộc sống nơi đây rất nhiều khó khăn, vất vả và thiếu thốn, đặc biệt gia đình các học sinh đều nghèo, hầu hết là ngư dân, vì vậy việc học của các em cũng không đều, trồi sụt theo việc kiếm sống của gia đình. Mặc dù vậy, mỗi lần được đến lớp, được nghe thầy giảng, các em đều chăm chú và say mê. Điều đó khiến thầy Danh Văn càng thấy thương và yêu quý các học trò của mình hơn, đó cũng là lý do vì sao thầy tự nguyện ở tới hơn 10 năm trên đảo.
Thầy Danh Văn ra đảo ngay khi vừa ra trường, tuổi còn đang rất trẻ và chưa lập gia đình, cho đến nay thầy đã lập gia đình với cô giáo cũng từ đất liền ra và dạy cùng trường.
Cô giáo trẻ Nguyễn Thị Thúy Hằng là giáo viên trường Mầm non An Sơn, tại đảo Nam Du, thuộc xã đảo An Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Tuổi đời mới ngoài 20, vừa ra trường, Hằng đã tình nguyện ra đảo giảng dạy.
Hằng cho biết, quê cô ở huyện Giồng Riềng (Kiên Giang) và cô đã có 3 năm dạy học tại Trường mầm non An Sơn: “Những ngày đầu mới ra đảo, tôi cảm thấy bỡ ngỡ bởi nghĩ ở đảo, lại xa đất liền đời sống khó khăn, sợ rằng không đáp ứng được điều kiện sinh hoạt. Hơn nữa tôi cũng cảm thấy buồn vì xa nhà, nhớ gia đình, tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ của các đồng nghiệp, của các cán bộ chiến sĩ, phần nào tôi đã vơi đi nỗi nhớ nhà.
Lâu riết thành quen, giờ tôi cảm thấy yêu mảnh đất này lắm, đặc biệt là các em nhỏ. Biết tôi “ở đất ra”, các em quấn quýt hỏi rất nhiều về đất liền. Những câu chuyện nhỏ nhặt cũng khiến các em háo hức, dễ thương và đáng yêu vô cùng”.
Hỏi chuyện lập gia đình, cô giáo cười bẽn lẽn nói “còn chưa có người yêu”… Chuyện yêu đương ở đảo xem ra còn khó hơn cả những khó khăn trong cuộc sống vốn đã chồng chất nơi đây.
Sự quan tâm, chính sách đãi ngộ là nguồn động lực để các thầy cô giáo thêm vững bước trong sự nghiệp “trồng người”
Qua đó mới thấy, sự gắn bó của thầy cô giáo với các em học sinh tại những hòn đảo xa xôi trên vùng biển Tây Nam là điều đáng trân quý. Tình cảm của các thầy cô giáo dành cho các học trò là vô bờ bến. Họ sẵn sàng hy sinh những đòi hỏi cá nhân, “bám trường”, “cắm đảo” dạy dỗ trẻ nhỏ. Họ không mệt mỏi, mỗi năm học lại tận tụy đi gõ từng nhà, từng chiếc bè, tàu cá, gặp gỡ từng phụ huynh để vận động các em đến trường…
Được biết, Trường Tiểu học và THCS Thổ Châu (đảo Thổ Chu) hiện có 21 giáo viên chính thức, trong đó 15 thầy cô giáo từ đất liền ra, còn 6 thầy cô là người dân ở đảo. Trường Tiểu học An Sơn (đảo Nam Du) có 26 giáo viên, 24 người từ đất liền, chỉ 2 người là gốc dân đảo. Còn Trường mầm non An Sơn thì 100% giáo viên đều ở đất liền ra. 15 giáo viên này từ đến từ khắp nơi: Thanh Hóa, Huế, Kiên Giang… Nhiều cô ra đảo rồi mới lập gia đình.
Ông Phan Hồng Phúc – Chủ tịch xã, xã đảo Tiên Hải TP.Hà Tiên, Kiên Giang, cho biết, cụm quần đảo Hòn Đốc có một trường duy nhất được dạy 3 cấp, từ cấp Mầm non, Tiểu học và Trung học Cơ sở, với khoảng 30 giáo viên, trong đó có 5 giáo viên là người ở đảo còn 25 giáo viên từ đất liền ra dạy học.
Theo chị Hà Thị Oanh – Hiệu phó phụ trách trường Tiểu học, Trung học Cơ sở Thổ Châu, dù trường đã được đầu tư xây dựng khang trang với 10 phòng học, 3 phòng chuyên môn, 6 phòng mầm non nhưng trường vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Không có điện lưới quốc gia, trường phải sử dụng điện từ máy phát nên nguồn điện không ổn định, nhiều lúc máy phát hỏng, cúp điện 2 – 3 ngày, sinh hoạt, dạy học rất bất tiện.
Không chỉ có đảo Thổ Chu, hầu hết các đảo vẫn chưa có điện lưới quốc gia. Tại đảo Nam Du, điều kiện chăm sóc sức khỏe, đội ngũ y, bác sĩ tay nghề cao còn thiếu nên trường hợp bệnh nặng phải chuyển về đất liền điều trị. Chưa kể, khi bước vào mùa mưa bão, giáo viên, học sinh các điểm trường xã đảo An Sơn vẫn nơm nớp lo sợ giông, lốc.
Nói về điều này, ông Phạm Văn Trung, Giám đốc Trung tâm Truyền thông sự kiện – Văn phòng Bộ GDĐT cho biết, ngành giáo dục luôn ghi nhận những đóng góp của các thầy cô giáo tại các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Ngành cũng phối hợp với địa phương tạo điều kiện tốt hơn để cán bộ, giáo viên yên tâm công tác.
Theo ông Phạm Văn Trung, tính đến hết năm học 2023- 2024, tổng số giáo viên mầm non, phổ thông trên cả nước là 1.251.377, trong đó 12 huyện đảo có điểm trường và trường học với số lượng giáo viên mầm non, tiểu học, THCS, THPT khoảng 4.300 người.
Theo Nghị định 76/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định về các loại phụ cấp, trợ cấp cho giáo viên công tác ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn như sau: Được hưởng phụ cấp thu hút bằng 70% mức lương hiện hưởng (hưởng không quá 5 năm); phụ cấp ưu đãi theo nghề bằng 70% mức lương hiện hưởng; phụ cấp lâu năm; hỗ trợ tàu xe, phụ cấp lưu động, trợ cấp lần đầu, phụ cấp thâm niên, thâm niên vượt khung…
Mới đây nhất, thông tin từ Bộ Nội Vụ, Quốc hội thống nhất, từ 1/7/2024 tăng lương cơ sở từ 1,8 triệu lên 2,34 triệu đồng mỗi tháng, giáo viên công tác vùng đặc biệt khó khăn cơ bản sẽ được giữ nguyên các khoản phụ cấp hiện hành, trợ cấp như cấp chức vụ lãnh đạo, kiêm nhiệm, trách nhiệm theo nghề,… trong đó có 70% phụ cấp ưu đãi và 70% phụ cấp thu hút,… Ngoài ra, phụ cấp thâm niên dành cho giáo viên tăng theo từng giai đoạn khác nhau.
Dù khó khăn của những thầy cô “cắm đảo”, “cắm bản” là khó có thể bù đắp đầy đủ, song những sự quan tâm của Nhà nước, các cấp ngành chắc chắn là phần thưởng động viên cho sự đóng góp lâu dài của những nhà giáo đã nhiều năm trong nghề…
(Còn tiếp)