Tôi nhẹ nhàng đẩy cửa hết mức có thể vì không muốn làm gián đoạn tiếng nhạc, rồi bước về phía, gặp được Ông ấy giữa lúc Ông ấy đến nhà tôi. Tôi không biết phải làm gì hay nên nói gì, tôi nghĩ mình nên đi theo Ông ấy như hồi còn bé. Nhưng ngay khi ánh mắt Ông ấy nhìn vào tôi, Ông ấy dừng lại và đặt cây sáo của mình xuống. Hai tay buông thõng bên hông, mắt mở to, miệng mím chặt. Trước khi tôi mở lời, Ông ấy đã nói trước.
“Là cháu à”, Ông ấy thì thầm, “Đúng thật là cháu,” Ông ấy lặp lại, to hơn một chút, như thể không tin vào những gì Ông ấy đang nói.
Tôi mỉm cười, “Đúng vậy”, tôi đáp, hơi ngập ngừng, nhưng rất vui khi Ông ấy còn nhận ra mình, “Ông còn nhớ cháu à?”
“Nhớ? Tất nhiên là nhớ rồi …” nghe xong Ông ấy vẫn còn ngạc nhiên, nhưng giọng Ông ấy vẫn bình thản và chậm rãi như lần cuối cùng tôi nghe thấy nó.
“Vậy thì quá tốt rồi,” tôi hít một hơi, “Cháu cứ nghĩ là Ông đã quên. Lâu quá rồi … “ Tôi nói, đã bao lâu rồi tôi cũng không biết nữa.
“9 năm, ta sẽ không đếm ngày nữa,” Ông ấy ngắt lời tôi.
“Ông có đếm ngày ư? Tại sao chứ, thậm chí cũng không phải ngày nào ông cũng đến.” Tôi im lặng, nhận ra một chút ẩn ý trong câu Ông ấy vừa nói với tôi, “Chờ đã, ông vẫn ổn chứ?”
“Không,” Ông ấy chậm rãi trả lời, “Không, ta không nghĩ vậy.” Ông ấy nâng cây sáo lên môi, bắt đầu chơi nhạc. Nhưng lần này thì nghe khác hẳn, không những nghe hơi buồn, nó còn văng vẳng tiếng lạc nhịp, Ông ấy dừng lại ngay. “Không tốt chút nào,” Ông ấy lắc đầu nói thêm.
“Ông giận vì cháu đã bỏ đi sao?” Tôi buột miệng thốt lên.
Ông ấy cau mày, “Ta có sao?”
“Nói cho cháu biết.” Tôi nhẹ nhàng nói.
“Vậy thì ta đoán là có đi.” Ông ấy thì thầm.
Tôi có thể cảm thấy mặt mình trầm xuống, “Cháu rất xin lỗi, cháu không cố ý làm tổn thương Ông,” tôi nói năng lộn xộn, “Lúc ấy ông muốn cháu phải làm sao, cháu nên … nói với ông hay thế nào?”
Ông ấy chỉ nhìn tôi chằm chằm, đôi môi mím chặt.
“Làm ơn, cháu thực sự xin lỗi. Cháu rất nhớ âm nhạc của Ông.” Tôi cố nặn ra một nụ cười xin lỗi. “Cháu không lãng quên ông, xin đừng nghĩ như vậy.”
“Khá kì lạ nhỉ” Sau một hồi ông ấy cuối cùng cũng nói chuyện, “Qua hơn 3.200 ngày, cho đến hôm nay nhìn thấy khuôn mặt này của cháu, ta mới phát hiện thật ra ta rất ghét cháu.”
Nghe Ông ấy nói điều này thật kỳ lạ, vì giọng điệu của Ông ấy hoàn toàn không có sự căm ghét. Nhưng bản thân những lời nói đó không khiến tôi sợ hãi, mà lời bộc bạch này khiến tôi không nói nên lời. Tôi nhìn Ông ấy bước đi, nắm chặt cây sáo bên mình. Cuối cùng khi thức tỉnh khỏi trạng thái mộng du, tôi đã chạy theo Ông ấy. Tôi nhanh chóng bắt kịp Ông ấy, những nỗ lực để nói chuyện với Ông ấy hoàn toàn vô ích, chủ yếu là vì những lời xin lỗi liên tục của tôi – ánh mắt bình tĩnh lạnh lùng của Ông ấy lướt qua tôi. Chúng tôi tiến vào rừng, nhưng tôi không rời bỏ Ông ấy. Tôi đi theo Ông ấy cho đến khi chúng tôi đến hồ – hay phần còn lại của hồ.
Cảnh đẹp xanh tươi đã biến mất, hồ đã khô gần hết. Thật ra nếu gọi nó là một vũng nước lớn thì cũng hơi lố. Ở nơi ấy bùn nhão còn nhiều hơn nước, cây cối xung quanh hồ trông xám xịt, xơ xác, lá héo úa đến bạc màu. Tôi không nghe thấy tiếng côn trùng hay kêu tiếng chim hót, ngoại trừ thỉnh thoảng có tiếng “răng rắc” giẫm lên cành cây của động vật hay tiếng kêu quái dị của ếch thì nơi đây rất yên tĩnh. Như thể nơi này đang dần chết đi hoặc có lẽ nó đã chết rồi.
“Ở đây xảy ra chuyện gì vậy?” Tôi lẩm bẩm, tròn mắt nhìn người đàn ông.
“Không có gì. ” “Ông ấy nói nhỏ, “Đã lâu lắm rồi nơi này chẳng xảy ra chuyện gì rồi. “
“Ý Ông là sao?”
Ông ấy liếc tôi một cái. “Về nhà đi.” Lần này, nghe có vẻ Ông ấy thật sự rất giận, giọng nói trầm thấp mang theo phẫn nộ.
“Xin Ông đấy … Bây giờ cháu không thể cứ đi như vậy. Tôi nhất định phải làm gì đó,” Tôi cầu xin, mặc cảm tội lỗi khiến tôi như đang đứng trên đống lửa. Tôi cảm thấy mình phải làm gì đó với chuyện này.
“Cháu sẽ hối hận đấy “, Ông ấy trả lời.
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu hồ cạn nước hoàn toàn?” Tôi hỏi.
Tuy nhiên, câu hỏi này đã đi quá giới hạn. Ông ấy quay lại thật nhanh, nhanh đến mức chiếc áo choàng bị tung bay trong gió, suýt chút nữa có thể tung ra một lớp bụi. “Đi,” Ông ấy ra lệnh – “Mau đi đi, nếu không ta thề ta sẽ dìm cháu xuống vũng bùn đó.” Tôi không biết liệu Ông ấy có thực sự làm vậy hay là không. Giọng ông ấy bình thản đến lạnh lùng nhưng lại phảng phất nét buồn. Tôi không muốn chống lại Ông ấy. Tôi bỏ lại Ông ấy một mình bên hồ, với sự sợ hãi chứa đầy trong bụng. Khi tôi lái xe rời khỏi thị trấn xinh đẹp đó, tôi cảm thấy trong lòng mình trống trải lạ thường.
Tôi đã quay lại với chồng sắp cưới của mình. 10 tháng sau chúng tôi kết hôn, 3 năm sau thì chúng tôi đã đón con trai đầu lòng–Micah. Chúng tôi ở rất xa nhà bố mẹ tôi, chưa nói đến việc phải đưa theo một em bé lái xe, nên mỗi lần họ muốn gặp tôi và cháu thì họ đều tự mình lái xe tới. Có thể gặp họ thường xuyên, có họ ở bên cạnh mình thật sự rất vui. Nhưng đồng thời nó cũng gợi lại những ký ức về người đàn ông thổi sáo xa lạ đó, những ký ức đau buồn, nhưng tôi đã cố gắng phớt lờ chúng. Tôi sẽ không bao giờ nghe thấy tiếng sáo của Ông ấy nữa, vì vậy thật vô nghĩa khi nghĩ về điều đó. Có một lần bố tôi đã nhắc đến chuyện này, ông ấy nói: đã lâu lắm rồi người đàn ông kỳ lạ đó không xuất hiện trên phố. Người ta cũng ít nhắc đến ông ta hơn. Sau đó, một số gia đình trẻ chuyển đến thị trấn, thậm chí không một ai kể này truyền thuyết đó cho họ, như thể người đàn ông kia đã dần bị lãng quên.
Khi Micah 7 tuổi, chở lần đầu tiên tôi đưa thằng bé về nhà bố mẹ đẻ. Bố thằng bé bận làm việc ở nhà, mà tôi ước gì mình và Micah sẽ có khoảng thời gian tuyệt vời ở thị trấn nơi tôi lớn lên, cũng để xem thằng bé có thích vùng nông thôn hay không. Bởi tôi và chồng đã tính đến việc chuyển đến một nơi yên tĩnh vắng vẻ hơn, nhưng vì một số lý do tôi từ chối chuyển về quê mình. Ít nhất là đối với những người sẽ đọc đến đây, đó là điều hiển nhiên. Tôi chưa bao giờ nói với gia đình mình về cuộc gặp gỡ tình cờ của tôi với người đàn ông kỳ lạ đó. Nhưng trên đường đến thị trấn, tôi đã kể cho Micah nghe về Ông ấy. Vì một số lý do, tôi cảm thấy để thằng bé biết đến những truyền thuyết cổ của thị trấn là một việc rất quan trọng. Tôi không biết nữa, tôi muốn để thằng bé biết. Khi tôi lớn bằng thằng bé thì tôi đã đã biết, cả đời đều biết. Nhưng mà tôi đã thay đổi một chút, khi Micah hỏi tôi phải làm gì nếu nó nhìn thấy người đàn ông đó, tôi đã nói với thằng bé rằng đừng đến gần Ông ấy.
“Nhưng mẹ đã nói âm nhạc của Ông ấy thực sự rất tuyệt mà.”
“Mẹ biết chứ, con yêu. Nó quả thực rất tuyệt, nhưng nếu con thấy Ông ấy và vì bất cứ lý do gì mẹ không thể ở bên cạnh con lúc ấy, thì hãy lập tức quay trở lại phòng và cũng đừng nói chuyện với Ông ấy. Nếu bất đắc dĩ thì hãy lịch sự nhé. Ông ấy không phải người xấu cũng không đáng sợ, nhưng … mẹ đã có chút xích mích nhỏ với Ông ấy. Ông ấy không còn thích mẹ nữa, và nói thật thì, mẹ sợ vì vậy mà Ông ấy có thể không thích con cho lắm.” Tôi không chắc Micah có hiểu không, nhưng điều làm tôi tôi ngạc nhiên là dường như thằng bé hiểu hết.
Thằng bé rất vui khi gặp lại ông bà ngoại của nó, chúng tôi đã dành cả ngày để trò chuyện và chơi board game với nhau. Họ vẫn còn giữ rất nhiều đồ chơi hồi còn nhỏ của tôi, nhưng vào cuối ngày trông Micah có vẻ rất nhàm chán, thằng bé cũng ngoan ngoãn đi ngủ khi đến giờ. Chúng tôi quyết định cho thằng bé ngủ trên chiếc giường nhỏ trong phòng ngủ cũ của tôi, còn tôi thì ra sofa trong phòng khách. Nửa buổi đêm đầu tiên thật bình yên tĩnh bình yên, tôi ngủ rất ngon cho đến khi bị tiếng đập cửa sổ trên lầu đánh thức. Tôi bật dậy với cảm giác hoảng sợ lạ lùng trong lồng ngực. Có gì đó không ổn, tôi không biết đó là gì nhưng tôi biết có gì đó không ổn. Tôi lao lên lầu, mở cửa phòng ngủ cũ của mình, nó trống trơn không một bóng người.
Tôi không thấy con trai mình đâu hết, cửa sổ ở bức tường đối diện đã mở toang từ lúc nào. Không.
“Micah! “Tôi hét lên, cảm thấy tim mình chùng xuống. Tôi chạy đến cửa sổ, thò đầu ra ngoài. Ánh trăng sáng đến mức tôi có thể nhìn thấy khu vườn bên dưới. Con trai tôi không có ở đó. Tôi quay lại chạy vào hành lang, cầu nguyện rằng thằng bé chỉ là đang ở chỗ nào đó trong nhà mà thôi. Tôi lại gọi tên thằng bé. Giọng mẹ tôi đáp lại, hỏi tôi đã xảy ra chuyện gì, rõ ràng là đang rất hoảng. Tôi không có thời gian để giải thích với mẹ, tôi đi giày, vẫn mặc bộ đồ ngủ chạy ra ngoài cổng. “Micah! “Tôi lại hét lên, dùng hết sức phát ra tiếng, làm cho cả một khu nhà gần như thức giấc. Tôi lắng nghe âm thanh trong đêm, hi vọng có thể nghe tiếng con trai trả lời ở đâu đó, nhưng chẳng có gì cả.
Không biết phải tìm ở đâu nữa, trong đầu chỉ còn lại duy nhất một nơi. Tôi phải đến hồ và tìm xem.
Tôi chạy băng qua đường, chạy vào rừng, gần như không cảm nhận được mặt đất dưới chân mình. Tôi hoàn toàn không ý thức được đường nhựa đã biến thành đất mềm, cây cối xung quanh che lấp ánh trăng, tôi không thể nhìn thấy con đường trước mặt. Nhưng tôi đã đi con đường đến hồ này rất nhiều lần để rồi, dù có nhắm mắt tôi cũng đến được đó. Cho đến khi tôi chạy đến mép nước, tầm nhìn mới trở nên thoáng đãng hơn. Ánh trăng sáng không còn bị bóng cây che khuất, mặt hồ lấp lánh. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy nó, trong nó hầu như chẳng có bao nhiêu nước. Mà bây giờ mực nước dâng cao gần như muốn nhấn chìm cả bến tàu. Và bên cạnh bến tàu, là người đàn ông thổi sáo, mặc một chiếc áo choàng màu xanh đậm như bầu trời đêm, vẻ mặt của Ông ta bình thản.
“Nước hồ đã trở lại,” tôi nói, đây là câu đầu tiên mà tôi có thể nghĩ ra. Tôi không biết tại sao đầu óc tôi quay cuồng, nhưng điều này cũng đủ ngạc nhiên để tôi phát hiện ra.
“Bởi vì ta đã lần nữa cảm nhận được chính mình,” Ông ta bình tĩnh trả lời. “Mọi người luôn nói rằng hình dáng ngôi nhà của bạn sẽ phản chiếu dáng vẻ của bạn.”
“Ông đã làm gì?” Tôi hỏi, đôi mắt ngấn lệ vì tức giận và tuyệt vọng. Đột nhiên mọi thứ trở nên thật hoang đường, tôi vô cùng muốn tin rằng tất cả chỉ là một cơn ác mộng, nhưng tôi biết mình rất tỉnh táo.
“Ta làm việc ta vẫn luôn làm, dẫn một người xuống hồ.”
“Vậy thì cmn hãy đem nó trở lại!” Tôi khóc, “Trả lại thằng bé lại đây nếu không tôi thề-“
“Cháu có thể đe dọa tôi thế nào tùy cháu. Thằng bé đã ở đó với những người không bao giờ quay trở lại,” Ông ta cười nhẹ, “Ước muốn lớn nhất của thằng bé là trở thành một hiệp sĩ. Thằng bé sẽ hạnh phúc khi ở dưới đó. Những người sống ở đó đã lâu không gặp gương mặt mới rồi.”
Tôi chỉ biết đứng lặng người, không nói nên lời vì sợ hãi. Micah không thể quay lại, và trong sâu thẳm tôi biết đó là sự thật. Đó là những gì mọi người đã nói với tôi, đó là một phần của truyền thuyết, luôn luôn là vậy.
“Tại sao ông lại làm vậy chứ?” Tôi lẩm bẩm, “Tôi đãnói rằng tôi chưa bao giờ có ý định làm tổn thương ông. Điều này chỉ là để trả thù tôi sao? Micah chỉ là một cậu bé … “
“ Lúc đó cháu cũng chỉ là một cô bé, đúng vậy, nhưng nó rất hiệu quả. Ta làm nó là vì chính mình, ta cảm thấy … lại lần nữa hoàn chỉnh rồi. Hơn nữa lần này, cuối cùng cháu có thể thay đổi câu trả lời của mình cho câu hỏi của tôi, ” Người đàn ông thổi sáo nói với tôi. Trước khi ông ta mở lời thì tôi đã biết ông ta muốn nói gì, “Thứ cháu muốn nhất trên thế giới này là gì?”
Tôi nghĩ tôi không cần phải nói cho các bạn biết tôi đã trả lời như thế nào, tôi đã có một ngày để nói lời chia tay trước khi Ông ta đưa tôi đến bên thế giới kia. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ thấy nới đó, chưa bao giờ. Tôi đã nói với chồng tôi về mọi thứ và điều đó thật tàn nhẫn, nhưng tôi hy vọng anh ấy sẽ đến đó với tôi. Nó sẽ là sự lựa chọn của anh ấy. Tôi không chắc anh ấy có tin tôi không, tôi cũng không chắc có ai đó sẽ tin tôi không. Nếu họ không tin thì sau ngày hôm nay họ sẽ không bao giờ gặp lại tôi nữa, có lẽ đến lúc đó họ sẽ tin.
Tôi sẽ nhớ rất nơi này, cuộc sống của tôi cho đến nay thật sự rất tuyệt. Tiếc là tôi không thể tiếp tục nó. Tôi cố gắng không nghĩ về việc có bao nhiêu người ở đây mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại. Dù sao thì cũng có Micah ở bên, và tôi đã đưa ra quyết định rồi. Tôi yêu con trai mình hơn tất cả mọi thứ trên đời, nếu không có thằng bé, cuộc sống của tôi ở đây sẽ không hạnh phúc hơn những gì đang chờ đợi tôi bên hồ. Ít nhất thì tôi còn có thể nghe lại được thứ âm nhạc tuyệt vời ấy.
END
_____________
Dịch: Tiêu Bông
