Những mối tình oan trái trong sử Việt: Từ Nguyễn Du tới Lương Thế Vinh

Những bậc kỳ tài như Nguyễn Du hay Lương Thế Vinh vốn được trời phú cho tài năng thiên bẩm, nhưng chuyện tình cảm lại rất ngang trái.

Mối tình hận của Nguyễn Du

Hồi còn là học trò, Nguyễn Du ở với cha là Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm ở Thăng Long. Thời gian này, Nguyễn Du đang theo học với cụ đồ họ Lê ở bên Gia Lâm. Ngày ngày chàng học trò đi sang nhà thày học phải đi đò qua sông Nhị (tên sông Hồng thời trước). Người lái đò là một cô gái thôn quê nhưng xinh xắn và ăn nói có duyên nên từ lâu đã lọt vào mắt xanh Nguyễn Du.

Như bao kẻ thanh niên thời nay, đã thích nhưng còn cần phải có cớ để làm quen, để chuyện trò. Đối với Nguyễn Du, dù hàng ngày đều giáp mặt cô gái nhưng chưa biết làm thế nào để làm quen nên tâm sự ngổn ngang trăm mối nhưng chưa biết bày tỏ thế nào.

Một lần, Nguyễn Du đến chậm, lỡ chuyến đò, phải đứng chờ. Giờ học đã trễ mà đò thì vừa qua còn phải một hồi nữa mới quay sang bên này. Nhưng thật là tái ông mất ngựa, họa phúc khôn lường, trong cái rủi có cái may. Nhờ dịp lỡ đò, Nguyễn Du đã nghĩ ra một tứ thơ để làm quen với cô lái đò. Và ông đã viết một bài thơ thế này:

Ai ơi chèo chống tôi sang

Kẻ trời trưa trật lỡ làng tôi ra

Còn nhiều qua lại lại qua

Giúp cho nhau nữa để mà…

Bài thơ bỏ lửng hai câu hết với dụng ý để cô gái tự điền vào. Viết xong rồi ông nhờ người bạn đưa tặng cô gái. Nhận thơ, cô lái đò bẽn lẽn ngại ngần nên từ chối nhưng nhờ có anh bạn kia hết sức thuyết phục nên rồi cô gái cũng nhận. Có lẽ cũng đã cảm mến anh học trò Nguyễn Du nên sau đó cô gái đã điền nốt hai chữ “quen nhau” vào cuối bài thơ.

Thế rồi hai người yêu nhau nhưng không thể đến được với nhau vì Nguyễn Du là con nhà quan còn cô gái xuất thân bình dân. Theo quan niệm ngày trước, như vậy là không môn đăng hộ đối. Do vậy, khi bị gia đình biết chuyện, Nguyễn Du bị một trận đòn nên thân và bị gửi về Thái Bình theo học một ông đồ khác nhằm cách ly đôi lứa. Mãi 10 năm sau, Nguyễn Du mới có dịp trở lại bến đò xưa thì cô gái đã đi lấy chồng từ lâu. Ông viết mấy câu thơ để tỏ lòng mình:

Yêu nhau những muốn gần nhau

Bể sâu trăm trượng tình sâu gấp mười

Vì đâu cách trở đôi nơi

Bến nay còn đó người nào năm xưa

Theo Những thiên tình sử nước Việt của Quỳnh Cư thì câu chuyện này sau đó được Nguyễn Du tự tay chép trong một bản thảo có nhan đề Mối tình hận của tôi.

Trạng Lường và mối tình trắc trở

Trạng nguyên Lương Thế Vinh từ xưa đã được các danh sĩ đề cao như bậc Trạng nguyên tài danh hàng đầu. Ông không những hay chữ giỏi Nho học mà còn giỏi cả Toán học nên mới có biệt hiệu Trạng Lường (Lường là tính toán). Nhưng ông cũng còn một cái thú đam mê khá sâu sắc nữa là hát chèo.

Sách Trạng Lường Lương Thế Vinh của nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam cho biết: Đêm đêm, hễ làng nào trong vùng có trống chèo nổi lên là y như có mặt Lương Thế Vinh. Có lần do quá ham thích, Lương Thế Vinh đã bỏ nhà đi theo một phường chèo diễn hay. Cậu say sưa học thêm cách sử dụng các nhạc cụ dân tộc, biết đánh trống chèo, lại thuộc nhiều làn điệu dân ca, làn điệu múa hát chèo. Bố cậu đã phải đi tìm, xin cho cậu về tiếp tục đi học.

Từ tính ham mê hát chèo của Lương Thế Vinh đã đưa đến mối tình đầu có kết thúc buồn của ông. Sách Những mối tình nổi tiếng trong truyền thuyết và lịch sử Việt Nam kể rằng: Năm 20 tuổi, hội xuân làng Si (ở gần làng Lương Thế Vinh) có gánh chèo nổi tiếng với cô đào chính của gánh chèo là người đang rất được nhân dân trong vùng mến mộ về diễn.

Lương Thế Vinh đến được đình làng Si thì đã khá muộn nhưng buổi diễn vẫn chưa bắt đầu vì tay chơi đàn nhị của gánh hát đột nhiên bị ốm chưa có người thay thế. Nghe vậy, Lương Thế Vinh bèn chen qua đám đông vào xin chơi thay cho tay đàn. Không có cách nào khác, gánh hát bèn chấp nhận. Nhưng chỉ một lúc sau, cả gánh hát lẫn người xem đã không còn phải băn khoăn gì về tay đàn vì tiếng đàn rất thành thục và đệm cho đào nương rất ăn khớp.

Trên chiếu chèo, cô đào dương như cũng diễn hay hơn bình thường vì cô biết người đang đệm đàn nhị cho mình diễn là anh học trò nổi tiếng mà cả vùng cả tỉnh gọi là thần đồng. Tâm trạng phấn khởi, bất ngờ cô đổi sang điệu sử xuân, đôi mắt nhìn về phía Lương Thế Vinh thắm thiết: “Vâng ý chàng, thiếp xin thưa lại, ĩn chuyên cần tần tảo sớm khuya. Việc tề gia là phận nữ nhi…”

Bên cây đàn nhị, Lương Thế Vinh cũng vừa đàn vừa hướng về đào nương trẻ cùng trang lứa mình với ánh mắt xao xuyến lạ lùng. Bỗng nhiên đào nương quay một vòng rồi chuyển sang hát điệu Chức cẩm hồi văn: “Thiếp xin chàng đèn sách văn chương, dầu hao thiếp rót, bấc non thiếp ngắt, ngọn đèn tàn thiếp khêu…”

Buổi diễn với tay chơi đàn bị ốm tưởng chừng phải nghỉ lại đầu xuôi đuôi lọt nên Lương Thế Vinh được gánh hát rất cảm ơn. Cô đào trẻ sau buổi diễn cũng chủ động gặp Thế Vinh để nói lời cảm tạ. Nhưng không phải như những lời cảm ơn xã giao thông thường. Hai tâm hồn như đã đồng điệu. Họ có điều gì đó muốn nói với nhau hơn là mấy lời cảm ơn mà sao không thốt nên lời.

Cô đào đã đem lòng yêu Thế Vinh mà không dám nói ra sợ ảnh hưởng đến việc học hành của chàng. Còn Thế Vinh cũng đã say men tình, muốn ngỏ lời ước hẹn mà cô gái không cho biết quê quán cũng như tên tuổi.

Bẵng đi mấy năm sau không gặp nhau nhưng Thế Vinh vẫn đêm ngày nhớ cô đào và mối tình sét đánh khôn nguôi. Dù vậy, nỗi nhớ chỉ là nỗi nhớ vì chưa ai nói ra và cũng chẳng biết ở đâu để tìm.

Năm 1463, Lương Thế Vinh đi thi, đỗ Trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông. Dù vẫn nhớ người cũ nhưng chẳng có tin tức gì. Lúc này, bố mẹ Thế Vinh cũng muốn con yên bề gia thất nên giục chàng lập gia đình. Thế Vinh đã cưới con gái của một thày học.

Trớ trêu thay, ngày ông vinh quy về làng, dân làng mở hội chúc mừng, cô đào năm nào thì ra vẫn bí mật dõi theo bước đường của ông. Nay biết ông đã công thành danh đạt cũng cùng gánh hát về hát mừng góp vui cho làng. Đêm ấy, gặp lại người cũ, nàng đã hát rất hay nhưng giọng hát có gì đó sầu thảm khiến nhiều người phải khóc. Sau buổi diễn, không ai thấy nàng đâu nữa. Sáng sau người ta mới biết rằng nàng đã tự tử và để lại một bài thơ tuyệt mệnh.

Thì ra biết Thế Vinh đã lấy vợ, tủi phận mình nên nàng đã quyên sinh để vĩnh viễn mang theo mối tình đầu trong sáng. Biết tin, Trạng Lường rất thương xót và cảm phục bèn cho lập miếu thờ ở đầu làng. Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam, xưa kia ở Giáp Nhất làng Cao Hương có một cái miếu thờ, người dân thường gọi là Miếu Ả Đào. Nơi đó chính là cái miếu thờ cô Đào hát đã quyên sinh vì Trạng Lường.

Nguồn: Dân Việt

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *