Ngày đó mẹ Mèo đang là một cô thiếu nữ, tuổi mười bảy mười tám gì thôi. Mẹ thời này đang đi học Cao Đẳng Sư Phạm, nối nghiệp gia đình làm nghề giáo (Gia đình ngoại có truyền giống gõ đầu trẻ, từ ông ngoại đã từng làm cán bộ Phòng Giáo Dục Thị Xã). Hôm đó mẹ ở lại chuẩn bị văn nghệ mừng xuân ở trường, đến tận tám chín giờ mới từ trường chạy về nhà. Thời đó chỉ có nhà giàu có mới sắm được xe gắn máy, nhà nghèo như mẹ thì có xe đạp đã may lắm rồi. Mẹ cùng mấy bạn gái nữa đèo nhau chạy về nhà. Lần lượt, lần lượt từng người bạn chia tay ra về, cuối cùng chỉ còn mình mẹ là phải chạy băng ngang qua nghĩa địa để về được đến nhà. Vừa đến cổng nghĩa địa là mẹ đã phát rùng mình rồi. Thời đó không có đèn đường, thôn xóm thì nằm phía sau nghĩa địa, đằng trước tuyệt nhiên không có một bóng người. Mẹ thì cũng không đến nỗi chết nhát, dù gì cũng sống mười mấy năm ở cái xóm này, ít nhiều cũng chui rèn cho mẹ một xíu lòng can đảm. Nhưng nói gì thì nói mẹ cũng chỉ là con gái chân yếu tay mềm, có chút phát sợ cũng là điều dễ hiểu. Vậy nên mẹ cố hết sức đạp nhanh thiệt nhanh để về nhà càng sớm càng tốt. Nghĩa địa giờ này tối đen như mực, lâu lâu mới có chút ánh sáng lập lòe của vài cây nhang ai đó đốt trên mấy nấm mộ. Đã tới được phân nửa nghĩa địa, mẹ khấp khởi mừng thầm vì sẽ về nhà an toàn mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Ai có dè đâu vừa nghĩ như vậy thì dưới chân đang đạp xe thấy nhẹ hẫng, xe đạp lảo đảo không đi nữa. Trời đất ơi, sút dây sên rồi. Mẹ than thầm trong bụng sao mà xui dữ vậy trời. Nhưng trời thì tối thui cũng không thấy đường mà gắn sên lại, mà đứng giữa nghĩa địa sửa thì còn ớn gấp mấy lần. Đành bấm bụng dắt xe về nhà vậy, cũng đâu còn có nửa đoạn đường chứ mấy, tới đầu xóm là nhà bà Tư, em gái của ngoại rồi, có gì kêu dì Diễm (em họ của mẹ) cầm cái đèn ra soi giúp là được. Nghĩ vậy nên mẹ nhảy xuống xe, rồi cứ vậy mà đẩy. Đi được thêm nửa đoạn đường còn lại, mẹ mới thở phào nghĩ mình chỉ dọa mình thôi, ma cỏ cũng không khơi khơi mà đi hù con người chớ. Mẹ lúc này mới dám nhìn ngó xung quanh chứ không chỉ dán mắt đằng trước mà đẩy xe nữa. Rồi ngay lúc đó mẹ đứng như trời trồng, mắt ngó thẳng không dám chớp, cũng không dám thở mạnh, da gà da vịt nổi hết cả lên. Mẹ vừa nhìn thấy bên tay phải mình, một người đang ngồi trên nấm mộ lớn. Trong đêm tối đen không một ánh đèn, vậy mà mẹ vẫn nhìn rõ người đó mặc bộ đồ màu trắng, dạng áo măng tô dài, trên đầu đội loại mũ như mấy ông xã hội đen trong phim Hồng Kông hồi đó. Mẹ hơi hoảng nhưng vẫn tự trấn an chắc ai đó đi thắp nhang rồi ngồi trên đó thôi. Mẹ không dám nhìn nữa, tiếp tục đẩy chiếc xe đi nhanh như chạy trên con đường nhỏ. Đi thêm một đoạn nữa, mẹ bỗng dưng cảm thấy lạnh ngắc cả người, một cơn gió lớn tự dưng thôi qua, mang theo một mùi vừa hắng hắc vừa thơm thơm của thuốc lá. Mẹ vừa sợ vừa tò mò, đôi mắt nãy giờ dán xuống đường cũng ngước lên nhìn quanh quất một chút, cố tìm nơi phát ra cái mùi thuốc lá thoang thoảng kia. Lần này mẹ sợ đến thiếu điều muốn tiểu trong quần, vẫn ở bên phải mẹ, nhưng giờ chỉ cách mẹ có hai dãy mộ, lại là người đàn ông đội nón phớt với bộ đồ màu trắng, lúc này đang đưa thuốc lá lên miệng chậm rãi hút, nhưng điều kinh khủng là trên khuôn mặt trắng bệch không hề thấy rõ mắt mũi miệng nào. Tay chân mẹ bủn rủn hết cả, lưỡi cứ líu hết vào. Mẹ dục đại chiếc xe đạp xuống đất, ba chân bốn cẳng mà chạy bán sống bán chết vào trong xóm mà không dám ngoảnh lại nhìn lần nào nữa. Về tới đầu xóm thì thấy bà Tư đang ngồi ở thềm ba với bé Diễm, mẹ thở hồng hộc kể lại sự việc vừa nãy thì ai nấy cũng vừa bán tín bán nghi, vừa sợ hãi trong lòng. Dì Diễm lúc đó còn nhỏ xíu chạy lại ôm mẹ mình cứng ngắc. Mẹ sợ quá thể, tay chân thì cứ lũn nhũn như cọng bún thiu, thành ra bà Tư đành phải dắt theo cả dì Diễm lúc này đang sợ bám dính trên người bà, mà dắt mẹ đi về nhà cách đó khoảng năm sáu nóc nhà về phía cuối sớm. Về tới nhà, mẹ vừa khóc bù lu bù loa với ngoại vừa kể lại câu chuyện kinh khủng kia. Chiếc xe đạp thì cũng đành dục ở ngoài nghĩa địa, đợi sáng mai ông ngoại ra lấy về, chắc tối giờ này cũng không ai dám ra mà dắt vô nữa.
Qua bữa sau thì mẹ cũng đỡ sợ nhiều rồi, cả nhà ai cũng trấn an là chắc mẹ nhìn gà hóa cuốc, chứ ma cỏ nào mà hù cái đứa nhát gan như mẹ, có chuyện gì người ta cũng bị trị tội chứ không đùa. Thành ra mẹ cũng tự cho là mình sợ quá nên nhìn tầm bậy tầm bạ, chứ không có nhìn thấy ma thiệt. Ông ngoại sau khi ra nghĩa địa lụm chiếc xe đạp cà tàng về thì cũng chở bà ngoại đi công chuyện mất. Mấy anh chị lớn thì lên trường dạy tăng cường phụ đạo cho học sinh, thành ra ở nhà chỉ còn mẹ với dì Bảy và cậu Út. Cậu Út năm đó mới có mười bốn tuổi, người đen nhẻm gầy gò như đứa nhóc mười, mười một tuổi. Mẹ ở nhà vừa lo học bài làm bài, vừa chăm hai đứa em, lo chuyện cơm nước giặt giũ. Lần qua lần quần với việc nhà cửa một hồi, trời đổ về chiều lúc nào không hay. Mẹ chạy ra ngoài kêu dì Bảy với cậu Út vô nhà dọn cơm rồi đợi mọi người về ăn. Giờ này mà ba mẹ hay anh chị cũng chưa ai về tới, không biết có bận bịu gì nhiều không nữa. Thời đó năm sáu giờ thì cũng đã nhập nhoạng tối rồi, mẹ thắp mấy cây đèn dầu tỏa ánh sáng tù mù lên. Đợi đến bảy giờ nhưng vẫn chưa ai về, mẹ mới định thôi thì dọn cho hai đứa em ăn trước, còn mẹ thì đợi mọi người về ăn sau. Vừa lúi húi xớt đồ ăn ra chừa thì mẹ nghe tiếng của cậu Út la lên: “Chị Sáu, chị Bảy, hình như có ai về ăn cơm rồi kìa.”
Mẹ quay sang cậu, rồi nhìn theo hướng tay cậu chỉ qua khung cửa sổ. Ở trước nhà có để một băng ghế gỗ ngay cạnh gốc mít. Đường vô nhà là nguyên một vườn cây rậm rạp nên khung cảnh rất âm u. Lúc này trên băng ghế dài có một người đang ngồi, lưng quay về phía cửa sổ. Vì trời đang chạng vạng, thiếu ánh sáng nên từ xa mẹ không nhìn rõ lắm, mẹ bước lại gần khung cửa sổ hơn, nghiêng đầu nhìn ra. Cái chén đồ ăn mẹ đang cầm trên tay rớt ngay xuống đất bể tan tành làm dì Bảy với cậu Út giật nảy cả người. Trước mắt mẹ, ngồi trên băng ghế dài trong sân là một người đàn ông trên người mặc bộ đồ màu đen. Vẫn là cái áo măng tô dài, vẫn là cái mũ phớt của hôm qua. Người đó ngồi bất động trên băng ghế, không một tiếng động phát ra. Mùi thuốc lá lại văng vẳng trong không khí khiến da gà da vịt mẹ nổi hết cả lên. Mẹ bủn rủn ngồi xụp xuống. Hai người em chạy lại vây quanh chị mình. Dì Bảy lên tiếng hỏi: “Ủa có gì mà chị làm đổ hết chén bát vậy Sáu? Người ngoài kia là ai đó chị?”
Mẹ á khẩu không nói lên được lời nào, chỉ biết nắm lấy tay dì Bảy ôm chặt lại. Cậu Út chưa biết gì, nhoài người ra cửa sổ nhìn, xong quay lại nói với hai chị: “Ủa ổng đi đâu rồi hai chị ơi? Mất tiêu luôn rồi. Mới nãy mà ha.”
Mẹ vẫn không nói gì, chỉ biết kéo tay cậu Út lại, rồi cứ ôm chặt hai đứa em. Cậu Út và dì Bảy không hiểu lắm, nhưng biết chị mình đang sợ gì đó, cũng ngồi im vòng tay qua ôm nhau. Ba người cứ ngồi ôm lấy nhau cả buổi, cửa sổ gì cũng không dám đứng lên đóng nữa. Cho tới lúc ông bà ngoại về tới nhà, thấy cơm nước lạnh tanh mới la cả ba một trận. Lúc này mẹ mới hoàn hồn lại mà kể cho ông bà ngoại nghe. Vì gia đình cũng tín nên nghe xong ông bà ngoại thôi la nữa. Hai người an ủi mẹ một hồi, cũng đúng lúc mấy anh chị về, cả nhà cũng kéo nhau đi ăn cơm. Tối đó mẹ vẫn ám ảnh khuôn mặt trắng bệch không mắt mũi miệng với cái mùi thuốc lá thoang thoảng đến nỗi phải năn nỉ bà ngoại ngủ chung. Qua ngày hôm sau bà với ông ngoại dẫn mẹ ra nghĩa địa để mẹ chỉ chỗ lần đầu tiên thấy người đó, rồi cúng một mâm đơn giản, cầu mong người kia đừng hù dọa mẹ nữa. Từ đó trở đi, mẹ không còn bao giờ gặp lại bóng ma người đàn ông kia lần nào nữa.
