Xin nói rõ lại về danh xưng. Chủng Mã Lai ở Viễn Đông chia thành hai chi. Chi Âu tức người Thái. Chi lạc là chi thứ nhì.
Chi lạc lại chia thành hai tiểu chi:
A) Austroasiatiques, chủ đất Hoa Bắc trước khi người Tàu xuất hiện. bọn nầy đã di cư đi Đại Hàn, Nhựt và Việt Nam cách đây năm ngàn năm, được Tàu gọi là Lạc bộ Trãi, chúng tôi gọi là Mã Lai đợt I trong quyển sử của chúng tôi. Nhưng ở đây chúng tôi gọi tắt họ là Trãi.
B) Austronésiens, chủ đất Hoa Nam trước khi người Tàu xuất hiện. Bọn nầy đã di cư đi Chàm, Phù Nam, Nam Dương, và lộn ngược lên Nhựt, được Tàu gọi là Lạc bộ Mã và chúng tôi gọi là Mã Lai đợt II. Nhưng ở đây chúng tôi gọi tắt họ là Mã.
Hai thứ Mã Lai ấy chỉ có những danh từ của con người cổ sơ là giống nhau thôi, như Tay, chơn, mặt, mắt, núi non, bông lá. Những sáng tác về sau, khác nhau hết.
Nhưng đặc biệt trong danh từ cổ sơ, đáng lý gì phải giống nhau hết, họ lại khác nhau ở CHƠN và CẲNG. Bọn Trãi nói CHƠN, bọn mã nói CẲNG.
Trong lãnh thổ Việt Nam hai nhóm ấy còn tồn tại:
Trãi Việt Nam + thiểu số Mã Lai ở trọ Đa số Thượng Việt
Mường Mường là Mã, khi xưa nói y hệt như Nam Dương, nhưng nay đã bị Trãi hoá và nói gần giống ta. Chàm, Phù Nam, Rađê, Giarai.
Có ba thứ người mà số phận giống hệt Mường đó là người Yêh, người Roglai và người Churu, họ là Trãi nhưng lại bị Mã hoá. Thuở xưa họ nói y hệt như Việt Nam, nhưng nay họ nói gần giống người Chàm vì nỗ lực đồng hoá của Chàm.
Ở Nhựt Bổn cũng có hai tiểu chi Lạc y hệt như ở Việt Nam, nhưng số lượng khác. Trãi Việt Nam do nhóm AĐÔUK của vua Hùng Vương lãnh đạo, còn Trãi Nhựt Bổn có lẽ do nhóm KHẢ TU lãnh đạo. Nhóm này hiện ở ngang Đà Nẵng phía trong Trường Sơn, nói khá giống người Nhựt về các danh từ Trãi. Còn danh từ Mã ở Nhựt thì dĩ nhiên là giống Nam Dương, y hệt như ở Việt Nam.
Để chứng minh sự kiện đồng chủng, khoa học chê ngôn ngữ tỷ hiệu.
Nhưng nhờ khoa đó mà chúng tôi biết chắc vua Hùng Vương lãnh đạo tất cả bao nhiêu bộ lạc vào khoảng năm 500 trước Tây lịch, biết chắc 100% và biết tên cả các bộ lạc ấy nữa.
Trước hết chúng tôi đã dùng luật đối chiếu của M. Swadesh, ông ấy có lập ra nhiều cái luật, mà một rất quan trọng: Luật về số lượng danh từ cần phải đối chiếu.
Chúng tôi đã kiểm soát chặt chẽ luật đó và chúng tôi thấy nó đúng 100%. Theo M. Swadesh thì chỉ cần đối chiếu 200 danh từ mà thôi là đủ rồi.
Không phải là hai dân tộc phải giống nhau tất cả ở số lượng 200, mà đa số danh từ trong hai trăm mà giống nhau, là đồng chủng.
Một kết quả ngộ nghĩnh và hay ho, lòi ra sau cuộc kiểm soát của chúng tôi. M. Swadesh cho phép đối chiếu CON MẮT mà không cho phép đối chiếu CÁI MẶT. Nhà ngữ học lỗi lạc đó đã nghiên cứu và thí nhiệm rồi, chớ không phải nói liều.
Hiện có lối một trăm dân tộc gốc Mã Lai, tất cả đều còn giữ được danh từ CON MẮT giống nhau, còn CÁI MẶT thì có ba dân tộc đánh mất: Nhựt Bổn, Cao Miên, Nam Dương.
Nam Dương mượn MUKA của Phạn ngữ, Cao Miên và Nhựt cũng thế (vì Nhựt, bọn Mã đã từ Nam Dương đi ngược lên để nhập bọn và lãnh đạo bọn Trãi tại Phù Tang). Nhưng Nam Dương lấy nguyên vẹn MUKA còn Cao Miên chỉ lấy âm đầu là MUK, nhật chỉ lấy âm sau là KA rồi biến thành KAO.
Thế là luật Swadesh chặt chẽ đến bất ngờ. Họ cấm đối chiếu Cái Mặt, chúng tôi không nghe, cứ đối chiếu, mới lòi ra sự kiện không ăn rơ.
Vậy chúng tôi đã đối chiếu 200 từ Việt ngữ căn bản của Swadesh với ngôn ngữ của khắp Đông Nam Á,
và chúng tôi tìm được trên 300 nhóm bộ Lạc Trãi. Những danh từ Việt mà nhóm này không có, thì nhóm khác có.
Thí dụ hai tĩnh từ THẤP và NGẮN thì chỉ có một nhóm độc nhất là có, đó là nhóm KUY. Thí dụ động từ TÊM (trầu) chỉ có một nhóm độc nhất là có đó là nhóm PACOH. Danh từ LỒI ỐI chỉ có một nhóm độc nhất là có, đó là nhóm Sơđăng.
Đây là tên của các nhóm đó ngày nay, ngày xưa chắc họ mang tên khác, vì có nhóm bị ngoại nhân đặt tên, chớ thực ra họ tự xưng khác, thí dụ nhóm Khả lá vàng là do người Lào đặt ra chớ họ tự xưng là ALAK.
Chúng tôi bắt đầu từ trên xuống, tức từ Hà Tịnh Quảng Bình đổ xuống, còn ở trên nữa thì không có Lạc bộ Trãi. Và chúng tôi bỏ các nhóm lai căng ra thí dụ nhóm Hơroy!
1. Khả lá vàng 19. Mnong 2. Bru 20. Gar 3. Pacóh 21. Xi Tiêng 4. Phương 22. Mạ 5. Tà ui 23. Lào 6. Khả Tu 24. Núp 7. Tà Kụa 25. Kâyông 8. Cụa 26. Srê 9. Jêh 27. Churu 10. Duan 28. Kôhô 11. Kayơng 29. Rôglai 12. HRÊ 30. Biat 13. Sơ Đăng 31. Tu Nong 14. Bà na 32. Kơ lua 15. Tơ dra 33. Mung Buk 16. Mơ nơm 34. Hrê 17. Ha lang 35. Cuti 18. Rơ lơm
Chúng tôi bỏ Rađê và Giarai ra vì họ, Chàm và Mường chỉ mới đến xứ ta 500 trước Tây lịch. Tiếng Việt có vay mượn của họ, nhưng những danh từ vay mựơn ấy không phải là căn bản.
Vậy vua Hùng Vương và khoảng năm 500 trước Tây lịch đã lãnh đạo 35 bộ lạc trên đây, và khi thống nhứt được rồi thì ta có Ngắn, có Thấp, có Têm trầu, có Lồi ối, mà bộ lạc nào không có đều phải học hết và tiếng Việt thành hình.
Không rõ Hùng Vương thuộc bộ lạc nào, nhưng ông vẫn phải thuộc 1 trong 35 bộ lạc đó. Chỉ có hai bộ lạc là có danh từ NẮNG nghen bà con, còn TÊM (trầu) thì chỉ độc một bộ lạc có mà thôi, đó là dân Pacóh, như đã nói.
Những điều chúng tôi nói ra trên đây không phải là suy luận như bạn Nguyễn Mạnh Côn đã nói mà có chứng tích hẳn hoi. Thí dụ nhóm Khả Tu chỉ có tĩnh từ ĐAU, tuyệt đối không biết các tĩnh từ khác của Việt Nam, còn nhóm Mạ thì chỉ có tĩnh từ xóc (Đau xóc hông), tuyệt đối không có tĩnh từ ĐAU.
Vua Hùng Vương thứ I thống nhứt các bộ lạc được rồi thì lấy của mỗi bộ lạc một tĩnh từ, nhờ vậy mà ta có Nhức, Đau, Tức, Rát, Xóc, Lói,… phong phú hơn bất kỳ nhóm Trãi nào khác, và tất cả các nhóm Trãi ở lưu vực Hồng Hà đều phải học với nhau, Việt ngữ thành hình và thống nhứt ngay từ thời Hùng Vương.
Chỉ có độc một nhóm Khả mới có động từ RAAN có nghĩa là RÁN SỨC, những bộ lạc khác nói GẮN vân vân… Về chữ Raan thì tự điển K..Đ viết đúng gốc tổ là RÁN (không G) còn dân chúng miền Bắc phát âm RÁNG có G là sai gốc tổ rồi vậy.
Sự lựa chọn danh từ để vay mượn thật là khó hiểu lý do. Người Khả Tu có đến 9 động từ ĐẺ khác nhau, nhưng ta không có lấy động từ nào của họ hết, mà lấy động từ đẻ của Mạ là dân chỉ có một động từ đẻ độc nhứt. Nhưng không nên hiểu rằng Mạ chính là bộ lạc của vua Hùng Vương, vì những danh từ khác ta không có lấy của Mạ, tức Mạ và ta chỉ giống nhau có mà thôi. Mỗi bộ lạc ấy chỉ giống ta có (không kể các danh từ chung như Mắt, Chim, Cây, Lá).
Thí dụ Thượng Việt có những danh từ sau đây để chỉ con cọp:
Klơa Klá Yau Agôôt Kan bơơi Pahua Kooq
Chắc chắn là ta lấy Kooq để biến thành CỌP. KOOQ là danh từ của người Khả Tu. Mà nó là danh từ trùng hợp với danh từ của bộ lạc của vua Hùng Vương chớ không phải Khả Tu là bộ lạc lãnh đạo.
Những danh từ nào mà ta chê không lấy, đều bị Nhựt Bổn lượm hết. Thí dụ người Khả Tu gọi con CHÓ là ANÚK là trùng với INÚ của Nhựt Bổn, người Khả lá vàng gọi CÂY là KI cũng trùng với Nhựt Bổn, không khác một nét.
Danh từ MANG là ĐÊM, được khắp Cao Nguyên dùng, nhưng ta chê, cũng được Trãi ở Nhựt trọng dụng và biến thành BAN.
Sự chọn lựa giữa ta và Nhựt không ăn khớp với nhau ở mỗi danh từ, thành thử Nhựt vừa giống ta, lại vừa giống đồng bào Thượng. Có thể nói hễ danh từ nào của Thượng Việt mà Nhựt dùng thì ta không, ta dùng thì Nhựt không, chỉ trừ 1 số nhỏ.
Theo tiết lộ của giáo sư đại học Nghiêm Thẩm thì Nhựt cũng đã biết sự kiện đó rồi và họ có thử đi Cao Nguyên, ghé thăm Giáo sư, nhưng chẳng hiểu họ có thành công trong việc đi tìm gốc tổ hay chăng?
Tỷ lệ 10/35 trên đây thoạt trông thì mâu thuẫn với lối trình bày của chúng tôi khi nãy là theo luật Swadesh, không bắt buộc phải giống nhau 100% mà đa số danh từ giống nhau, tức 55% là đủ rồi. Nhưng 10/35 thì thấp hơn 55%.
Ở đây lại cần giải thích rõ ràng minh bạch: 10/35 là số lượng danh từ đặc biệt mà bộ lạc lãnh đạo cần mượn thêm, như TÊM (trầu) chẳng hạn, còn 55% là số lượng danh từ thường mà tất cả đều phải giống nhau như Mắt, Nước, Lá. v.v
Về sự chọn lựa, ta chỉ có thể lấy lý trí mà suy ra chớ không thể biết chắc đựơc: khi nào một ý niệm cần được diễn ra bằng nhiều hình thức, như bị đau đớn, có nhiều lối đau khác nhau, thì vua Hùng Vương mới phải vay mượn lung tung nơi các bộ lạc mà ông lãnh đạo, còn khi nào một ý niệm chỉ cần diễn ra bằng một hình thức độc nhứt như Đẻ chẳng hạn thì không có vay. Như vậy thì Đẻ của Mạ chỉ ngẫu nhiên trùng với Đẻ của bộ lạc lãnh đạo, chớ không phải là bộ lạc ấy vay mượn Đẻ của Mạ.
Về sự kiện thứ nhì, ta cũng chỉ biết được qua một cuộc suy luận mà thôi. Vua Hùng Vương dĩ nhiên là có khuynh hướng bắt các bộ lạc khác dùng danh từ của bộ lạc ông. Nhưng ở trường hợp nầy thì ông không thể thành công, bởi nếu trong 36 bộ lạc, mà chỉ có 3, 4 bộ lạc trùng hợp với ông thì ông bị thiểu số, danh từ của đại đa số sẽ thắng. Thành thử những danh từ mà Văn Lang chánh thức hoá về sau, không phải luôn luôn là danh từ của bộ lạc vua Hùng, mà phải là danh từ của đa số.
Tuy nhiên, khi chúng tôi đối chiếu tổng quát, chúng tôi thấy rằng bộ lạc đã thống nhứt các bộ lạc khác có ngôn ngữ tương đối giống nhứt với ngôn ngữ Khả lá vàng, mặc dầu vì trốn tránh trong rừng từ hơn hai ngàn năm nay, Khả Lá Vàng đã mất gần hết ngôn ngữ, không phong phú như Khả Tu chẳng hạn,
nhưng những danh từ còn sót lại thì quá giống danh từ hiện kim của ta.
Nhưng xin cần nói rõ. Thí dụ CÁ thì chính Sơ Đăng giống ta 100% còn Khả lá vàng thì nói AKA, nhưng các danh từ khác thì Sơ Đăng lại không giống ta mà Khả Lá Vàng giống, tuy chỉ giống tương đối như CÁ và AKA, nhưng không khác hẳn như Sơ Đăng.
Sự ít giống, nhưng lại ít ở tất cả mọi danh từ là dây liên hệ mạnh hơn là giống nhiều, giống 100%, nhưng chỉ trong một số danh từ mà thôi. Ngoài Khả Lá Vàng, thì các bộ lạc khác như nhau, không bộ lạc nào hơn bộ lạc nào về sự giống ta.
Thời điểm năm 500 trước Tây lịch mà chúng tôi đưa ra không phải là thời điểm đúng hay khá đúng mà là thời điểm chắc chắn không có đệ tam nhân xen vào vì tiền sử học cho biết rằng chính năm đó là năm bọn Lạc bộ Mã đến nơi (tổ tiên của người Mường). Từ năm đó đổ lên thì cuộc thống nhứt của các bộ lạc Trãi xảy ra vào năm nào, chắc không bao giờ biết được hết vì con số 18 đời vua Hùng Vương không thể kiểm soát, mà con số về thời gian trị vì của một đời vua cũng không thể biết được, phương chi không phải thống nhứt xong rồi là có vua ngay đâu, mà có thể chỉ có tổng tù trưởng mà chưa có Hùng Vương thứ I, và tình trạng đó, có thể kéo dài 500 năm cũng được như thường.
Đôi khi có vua rồi, nhưng lại chưa thống nhứt được như trường hợp của người Giarai, họ có đến hai ông vua, Thủy Xá và Hoả Xá, thế mà họ chưa thống nhứt nổi Rađê đồng chi Mã với họ.
Nhưng thường thì thống nhứt rồi, mới có vua. Trường hợp Giarai là trường hợp đặc biệt.
Khi thống nhứt xong thì tên của các bộ lạc phải bị quên, không còn Pacóh, Bru, Khả Tu gì nữa hết ở lưu vực Hồng Hà mà chỉ còn có VRĂN NANG = Cau sọc và hằng ngàn năm sau Vrăn Nang mới bị biến thành Văn Lang. Nhưng Vrăn Nang là quốc hiệu hẳn hòi chớ không phải là tên của bộ lạc lãnh đạo. Bộ lạc ấy tên gì, ta sẽ thấy lát nữa đây.
Ta cũng không nên ngộ nhận về sự kiện sau đây là không phải chỉ có 35 dân tộc ấy là giống ta, mà ngôn ngữ Kha si của dân Naga ở Assam( Ấn Độ) cũng giống hệt ngôn ngữ thượng Việt, nhưng họ ở quá xa lưu vực Hồng Hà thì họ không thể được vua Hùng Vương thống nhứt, nên chúng tôi chỉ kể tên các dân ở Cao Nguyên, lào và Cao Miên mà thôi, vì những phần tử không được thống nhứt, có đi xa lắm cũng chỉ đi quanh đó, còn Khả Si tuy cũng là Trãi, nhưng họ định cư xa như thế tức họ Nam thiên từ Hoa Bắc do ngã hướng Tây, y như bọn lạc bộ Chuy, tức không có ghé lưu vực Hồng hà.
Con số 1960 tù trưởng mà truyền thuyết Mường nói đến không vì con số 35 trên đây mà sai, bởi mỗi bộ lạc có nhiều tù trưởng. Nhưng con số 15 bộ của truyền thuyết ta thì chắc chắn là sai. Bộ của truyền thuyết ta, cho dẫu có nghĩa là bộ lạc, hoặc tỉnh gì cũng không thấy còn dấu, mà dấu vết cổ thì phải còn, chúng tôi thấy như vậy khi kiểm soát về các việc khác.
Truyền thuyết của khách trọ lá Lạc bộ Mã đã xoá mất truyền thuyết của lạc bộ Trãi. Nhưng trên Cao nguyên hẳn là còn cái gì và chúng tôi mong đợi ở các nhà nghiên cứu khác, hiện họ đang làm việc tại Cao nguyên.
Chúng tôi nói có tất cả 35 bộ lạc, nhưng thật ra là 36, vì vua Hùng Vương thuộc một bộ lạc khác, có tên khác, và đông hơn cả, nên mới thống nhứt được các bộ lạc khác.
Vua Hùng Vương thuộc bộ lạc nào. Trong quyển sử của chúng tôi, chúng tôi đã tiết lộ rằng đa số đồng bào Thượng gọi ta là Mandi, bằng Phạn ngữ, vì chịu ảnh hưởng của Cao Miên và Chàm. Nhưng ở trên Kontum đổ lên Hà Tịnh thì họ lại gọi ta khác vì họ không có chịu ảnh hưởng của Chàm và Cao Miên và chúng tôi tin rằng họ goi theo thời Thượng cổ.
Từ người Khả Tu đến người Pacóh đến người Bru, ở trên địa bàn Sơ Đăng, đều gọi ta là dân AĐUỐK. chắc chắn là vua Hùng thuộc bộ lạc AĐUỐK, là bộ lạc đa số ở lưu vực Hồng Hà.
Ađuốk chẳng có nghĩa gì cả trong ngôn ngữ của bất cứ nhóm thượng nào. Có lẽ đó là danh tự xưng và
phải có nghĩa trong bộ lạc Ađuốk, nhưng các bộ lạc khác không có danh từ đó nên họ không hiểu, trừ các bộ lạc bị thống nhứt thì hiểu, nhưng đó là một danh từ đã mất vì luật Swadesh.
Tuy nhiên tất cả các nhóm Trãi trên Cao Nguyên đều có truyền thuyết cho rằng họ và ta đồng gốc tổ.
Và xin đừng ngộ nhận ở điểm này. Trên 30 bộ lạc đó, không phải là các bộ lạc khác ly khai vì không khứng được với vua Hùng thống nhứt. Sự kiện lịch sử khác hẳn sự tưởng tượng của ta. Khi rời Hoa Bắc di cư đi Việt Nam thì mỗi nhóm chiếm một vùng ở các nơi mà Pháp gọi là Đông Pháp, nhưng đặc biệt ở lưu vực Hồng Hà thì có đủ mặt tất cả ácc bộ lạc vì hai lẽ:
a) Tất cả đều ghé lại đó.
b) Nhưng rồi họ thấy là đất quá chật cho tất cả, nên rồi mỗi nhóm mỗi có người tái khởi hành để đi nơi khác, vì vậy mà mới có đồng bào Thượng ở nơi khác.
Và xin cũng đừng hiểu lầm về điểm thứ nhì này. Là đồng chi lạc bộ Trãi với nhau, họ phải có danh từ chung với nhau hết thẩy, chỉ có những danh từ đặc biệt mới là khác và mới được vua Hùng vay mượn, chớ Cá, Nước, Mắt, Mũi, tay, Chơn đều nhu nhau. Thí dụ: RỬA thì tất cả đều nói là RAO, RÀO, ARAU, MARAU, IRAU .v.v…
Vua Hùng Vương lại thống nhứt ngôn ngữ hơi lạ lùng là lấy cả hai trạng từ của một nhóm để nhập làm một. Thí dụ nhóm Khả Tu có trạng từ Mak có nghĩa là MẶC KỆ, và trạng từ TAKÊ đồng nghĩa. Mak bị nhập với Takê để làm mặc kệ của Việt.
Tuy người Việt miền Bắc vẫn nói Mặc gọn lỏn, còn người Việt miền Nam vẫn nói KỆ gọn lỏn (hoặc THÂY KỆ. THÂY là trạng từ Phù Nam).
Thế nghĩa là MẶC KỆ chỉ mới có về sau này, chớ không phải vua Hùng Vương nhập lại, còn hồi xưa ta vẫn nói y hệt như Khả Tu là Mak và Takê chúng tôi chủ trương rằng tất cả dấu vết cổ thời đều còn đủ và trường hợp MẶC, KỆ và MẶC KỆ đã cho thấy rõ như vậy.
Việt ngữ thành hình đúng vào năm mà cuộc thống nhứt các bộ lạc đã hoàn thành, chớ trước đó thì chỉ có các phương ngữ Mã Lai, mà không hề có ngôn ngữ của bất kì quốc gia nào, vì các quốc gia Việt ở Hoa Nam cũng chỉ được thành lập đồng thời điểm với nước Văn Lang chớ cũng chẳng lâu đời hơn được.
Như đã nói, chúng tôi không biết cái thời điểm ấy, nhưng sớm lắm cũng chỉ một ngàn năm trước Tây lịch chớ không thể sớm hơn, bởi từ chiếc đá mài lưỡi rìu có tay cầm tiến lên phong kiến giai cấp, mất hai ngàn năm là vừa, không chậm cũng không mau.
Tuy nhiên, cái Mã Lai ngữ hay các phương ngữ Mã Lai trước đó, cũng vẫn là Việt ngữ phần nào rồi, bởi các danh từ chung của chủng tộc đã nằm sẵn trong đó rồi, kể cả vài yếu tố về văn phạm nữa.
Người Jeh nói: Nó, anh là tôi = Tôi là anh của nó (hơi ngược) Người Mạ nói: Tôi ăn cơm = Tôi ăn cơm (xuôi) Người Khả Tu nói: Tôi nhắm mắt = Tôi nhắm mắt (xuôi)
Thống nhứt xong rồi thì xuôi ngược gì phải một chiều hết thảy.
Nhưng đó chỉ là các phương ngữ của Lạc bộ Trãi, và Việt ngữ lạc bộ trãi.
Bọn Lạc bộ Mã chưa tới nơi mà Việt ngữ đã giàu 30 lần hơn mỗi bộ lạc trong 35 bộ lạc kể trên. Bọn Mã tới Việt thì Việt ngữ lại phong phú gấp đôi vì bọn ấy llại còn có nhiều danh từ riêng hơn các bộ lạc Trãi bởi họ đã lập quốc rồi ở Hoa Nam.
Đến năm 500 trước tây lịch thì bọn Lạc bộ Mã đến nơi và vua Hùng Vương lại vay mượn của bọn khách trọ ấy (tổ tiên của người Mường. Bấy giờ thì vua Hùng giống hệt như Nhựt Bổn ngày nay, là mỗi ý niệm
có hai danh từ. Thí dụ như Nhựt lấy MASÉ của Nam Dương, (Mã) biến thành Mađa có nghĩa là NỮA, và lấy một trạng từ của một nhóm Trãi ở Nhựt để làm trạng từ NỮA thứ nhì của họ dưới hình thức NAO.
Chỉ phiền là không thể biết NAO và NỮA, tiếng nào chắc chắn đúng gốc tổ hơn, vì không thể theo dõi tất cả những danh từ thượng cổ được như chúng tôi đã theo dõi CÁ và TÔI.
Nhưng chúng tôi có cảm giác rằng NỮA đúng gốc tổ hơn vì đồng bào Thượng nói gần gần như thế, thí dụ người Sơ Đăng nói NẾÔ, giống Nữa của ta hơn là giống NAO của Nhựt. Tuy nhiên đó chỉ là một cảm giác, vì luật đa số không bao giờ được chúng tôi dùng để chứng minh cái gì hết.
(Trích “Lột trần Việt ngữ” Bình Nguyên Lộc)