Trả lời: Hữu Duy Vũ, biết tiếng Việt.
Dưới đây là những điều mà Đại Việt đã học được từ sự sụp đổ của nhà Tống trước quân Mông Cổ:
1. Đừng cố gắng bảo vệ thành trì một cách mù quáng. Do kỵ binh Mông Cổ bên cạnh tốc độ, còn được yểm trợ đến từ các cung thủ, họ đã phát triển được một chiến thuật để phá vỡ sự phòng thủ của tường thành và chặn đường tiếp tế của đối phương. Họ thành công từ Trung Á, Trung Đông đến Nga, Đông Âu. Quân Đại Việt khi đó không thể so sánh được với Mông Cổ và cả những nước đã bại trận trước họ, nên tất nhiên, sẽ là một ý tồi nếu chúng tôi cố gắng đánh với họ theo cách của Trung Quốc. Cách tốt nhất là rút lui toàn bộ trước khi quân địch đến bao vây mọi hướng rút lui.
2. Đừng cố gắng bảo vệ kinh đô một cách mù quáng. “Kinh thành còn, đất nước còn”, một suy nghĩ thường thấy của quân đội trên toàn thế giới. Nhưng chúng tôi đã thay đổi nó thành “Quân đội còn, đất nước còn”. Chúng tôi thậm chí còn bỏ lại Thăng Long cho họ chiếm đóng, do hiểu rằng, không sớm thì muộn, với quân số, vũ khí của họ thì đội quân được đào tạo bài bản, vũ trang tốt của chúng tôi sẽ bại trận do họ có nhiều kinh nghiệm thực chiến hơn. Nên việc giảm thiểu thiệt hại để dành quân cho những đợt phản công về sau sẽ tốt hơn.
3. Không để lại lương thực hay bất cứ thứ gì có thể được dùng như tiền. Khi rút lui, cả binh lính và dân thường sẽ mang theo nhiều gạo, vàng, bạc… nhất có thể, giấu chúng dưới đất, trong hang núi,… bất cứ chỗ nào mà kẻ địch không biết, nó được gọi là chiến lược “vườn không, nhà trống”. Chúng tôi biết rằng mỗi một binh sĩ Mông Cổ chỉ mang rất ít lương thực (đủ cho 3 – 7 ngày). Về cơ bản, họ đi đến bất cứ đâu cũng đều cướp phá, không chỉ để gây sợ hãi cho người dân, mà còn để gia tăng quân nhu. Không giống như quân Trung Quốc thường sở hữu một đội quân vận chuyển hùng hậu, quân Mông Cổ không làm vậy, để tránh mất công bảo vệ một đơn vị không có tác dụng chiến đấu. Nhưng đó lại là điểm yếu của họ – không ai có thể chiến đấu với một cái bụng rỗng được. Hãy tưởng tượng bạn phải mặc áo giáp, mũ mão (nhẹ hơn kỵ binh Châu Âu nhưng vẫn có trọng lượng tương đối; thêm cả kiếm, dao, cung, tên và phải di chuyển 20 – 30km mỗi ngày, đồng thời phải đề phòng bị phục kích bất cứ lúc nào, thì sức lực của bạn sẽ sớm suy giảm thôi).
4. Không để dân thường ở lại những vùng bị chiếm đóng. Phụ nữ, người già, trẻ em – những người chân yếu tay mềm – được rời đi trước khi quân địch đến gần, rồi quay trở lại cuộc sống hàng ngày khi chúng bỏ đi. Điều quan trọng, là quân địch không thể dựng lên một chính quyền bù nhìn ở mỗi địa phương chúng chiếm được, bởi vì làm gì có ai để cai quản. Đây là một phần của chiến lược “vườn không, nhà trống”.
5. Cắt đứt liên lạc của kẻ địch. Sau khi chiếm được những vị trí nằm sâu bên trong lãnh thổ Việt Nam, họ sẽ bắt đầu thiết lập các trạm liên lạc. Rất nhiều trạm được lập ra để tạo nên một đường dây thông tin, tất nhiên là dùng ngựa. Chúng tôi chỉ cần chờ giao liên đến, phục kích hắn; đầu tiên là bạn sẽ làm gián đoạn việc báo cáo chiến sự, yêu cầu tiếp tế của đối phương đến cho tổng hành dinh quân Mông Cổ ở Trung Quốc; thứ hai, nếu may mắn, thì bạn sẽ có được thư từ có thể được các tướng quân phe mình sử dụng. Một mũi tên, trúng hai đích. Đó chính là hình thức sơ khai của những cơ quan mật vụ ngày nay.
6. Tấn công lực lượng vận chuyển của đối phương. Nghe hơi mâu thuẫn nhỉ. Sau hai lần đầu tiên, quân Mông Cổ hiểu được rằng: Xâm lược Đại Việt tốn thời gian hơn họ tưởng, nên việc mang theo quân tiếp tế là bắt buộc cho lần thứ 3. Đô đốc Ô Mã Nhi đứng đầu hải quân Mông Cổ mở đường cho quân tiếp tế của Trương Văn Hổ đi qua. Nhưng ông ta đã coi thường thuỷ quân Việt Nam, và bỏ mặc họ Trương đi sâu vào bên trong lãnh thổ Việt Nam. Đây là một sai lầm lớn. Đô đốc người Việt Trần Khánh Dư đã tận dụng điều này để mai phục thuyền của Trương khi ông đi qua vịnh Hạ Long. Trần Khánh Dư đã sử dụng địa hình nhiều núi của vịnh để ẩn nấp. Ngoài ra, việc huấn luyện, kỹ năng và kinh nghiệm của hải quân Mông Cổ cũng rất yếu.
7. Thiết lập nhiều vùng cơ động và an toàn để dành cho trung tâm chỉ huy và ban lãnh đạo cấp cao. Nhà vua ở đâu, thì nơi đó là một kinh đô tạm thời. Đó phải là một nơi có địa hình hiểm trở phục vụ cho phòng thủ và có thể rút lui khi cần. Bằng cách này, quân Mông Cổ rất khó xác định được vị trí của nhà vua, và luôn đến chậm hơn một bước. Với chính phủ tập quyền theo truyền thống Nho giáo khi mà toàn bộ quyền lực nằm trong tay nhà vua, nếu nhà vua ra lệnh đầu hàng, thì toàn bộ đất nước sẽ tuân theo do “lòng trung thành tuyệt đối với ngài.”
8. Vai trò quan trọng của quân địa phương. “Mỗi người dân là một chiến sĩ”, đây là một sự thật. Thanh niên, người già, bất cứ ai có thể cầm vũ khi đều có thể tham chiến. Họ là những người phục kích giao liên địch, quấy nhiễu căn cứ địch và là một nguồn tiếp tế quan trọng cho quân triều đình. Quân địch không đủ ăn, cộng thêm với việc nơm nớp lo sợ bị phục kích bởi quân địa phương, liên tục, kéo dài, không ngừng nghỉ, “ác mộng” vẫn còn là quá nhẹ để nói về chiến lược dù khá tồi nhưng vẫn rất hiệu quả này. Chiến tranh du kích Việt Nam bắt đầu từ những lúc này, khi mà chúng tôi phải chống lại những kẻ địch quá mạnh (trong lần xâm lược thứ 2 và 4, đối phương đã sử dụng tổng cộng nửa triệu quân trong khi dân số của chúng tôi khi đó chưa đến 4 triệu người), con số này tương đương với 10 triệu quân để xâm lược Việt Nam hiện nay.
9. Vai trò quan trọng của tuyên truyền. Mông Cổ dù có các chỉ huy và quân tinh nhuệ là người Mông Cổ, nhưng những binh lính còn lại chủ yếu là tàn quân của các nước Trung Quốc: Tống, Đại Lý. Chúng tôi đã bắn tên gắn truyền đơn chiêu hàng cho những người này, nói rằng họ không thừa nhận và bị ép buộc, và họ sẽ được định cư ở đây nếu ra hàng. Điều thú vị là những đơn vị quân Trung Quốc sau khi ra hàng, rất hăng hái tham chiến lại để trả thù. Phần lớn được định cư lại như đã hứa.
10. Chọn đúng thời điểm tấn công. Phản công sớm, thì quân Mông Cổ vẫn còn quá mạnh. Phản công chậm, thì quân tiếp viện từ Trung Quốc sẽ đến và thương vong của người dân sẽ tăng. Lịch sử đã chứng minh khoảng thời gian từ 1 đến 3 tháng là hợp lý.
11. Chọn đúng đơn vị quân địch để tấn công. Điều này bắt nguồn từ sự khác biệt giữa lối sống của Mông Cổ và Việt Nam. Dù phần lớn quân của họ là những người lính đến từ những nước bại trận, do dân số và quân đội Mông Cổ là rất ít khi so sánh với những nước họ đã chinh phục. Khi tấn công nhà Liêu, họ sử dụng quân chủ lực. Khi tấn công nhà Tống, họ sử dụng quân đội nhà Liêu đã được tổ chức lại và được họ chỉ huy, nhằm bảo vệ các chỉ huy và quân chủ lực. “Dùng chiến tranh nuôi chiến tranh”, đó là cách mà những đế chế cổ đại được sinh ra. Triều đại La Mã cũng sử dụng cách tương tự. Nhưng như tôi đã nói ở phần tuyên truyền, thì kiểu quân này rất yếu – tham vọng thật sự là những tướng lĩnh và quân tinh nhuệ Mông Cổ. Họ cũng không thuần thục với cách chiến đấu của Mông Cổ, không có được kỹ năng như quân tinh nhuệ, dù có số lượng lớn, nhưng chất lượng không đồng đều. Điều này nghe hơi mâu thuẫn với điểm 2. Nhưng những binh lính thiện chiến nhất chỉ là những binh lính người Mông Cổ. Khi tình hình vẫn được kiểm soát, kẻ địch vẫn còn yếu, thì đội quân này vẫn còn tác dụng. Nhưng với tình hình lúc đó, thì ý chỉ của họ đã bị sụt giảm. Kể cả Pháp và Mỹ sau này cũng bị đánh bại theo cách tương tự. Chúng tôi tránh giao tranh với các đơn vị quân tinh nhuệ, tập trung mũi nhọn vào các đơn vị quân Trung Quốc. Giảm đi kỷ luật trong nội bộ quân địch, khiến họ phải mất thời gian duy trì trật tự là một cách khác để làm suy yếu đối thủ.
12. Chọn đúng cách phản công. Thế mạnh của quân Mông Cổ là chiến đấu trên những địa hình bằng phẳng – giống như quê nhà của họ, nơi mà ngựa có thể chạy với tốc độ cao. Họ chiến đấu theo cách của dân du mục. Nhưng địa hình Việt Nam thì lại có nhiều đồi núi và rừng rậm. Không dùng được ngựa, quân Mông Cổ bớt nguy hiểm đi khá nhiều. Dù họ có dùng ngựa hay không, thì với loại địa hình này, điều đó cũng không còn quan trọng. Tiếp theo, khi nói về chiến tranh giữa Việt Nam và Mông Cổ, mọi người thường cho rằng phần lớn sẽ giao tranh ở địa hình hiểm trở, nhưng thực tế thì ngược lại. Đúng là có nhiều cuộc mai phục diễn ở đó; nhưng những trận chiến lớn lại diễn ra ở đồng bằng sông Hồng. Bề mặt đất mềm, ẩm ướt (do là đồng ruộng), nhiều sông ngòi cả tự nhiên và nhân tạo là một thiên đường của nông dân và thợ đánh cá, và địa ngục dành cho những kẻ du mục; tất nhiên là nếu phe phòng thủ biết tận dụng lợi thế này. Nhà Trần trước khi nắm quyền là làm nghề đánh bắt hải sản đã sinh sống ở khu vực mà ngày nay là bờ biển phía Nam đồng bằng sông Hồng, nên thuỷ chiến là thế mạnh của họ. Trận chiến lớn nhất diễn ra giữa 2 bên trên sông Bạch Đằng (1288), cửa sông ở đây có thuỷ triều dâng cao 2 lần mỗi ngày. Quân nhà Trần đã cắm ở đáy sông ở những cọc nhọn, bọc sắt, vừa đủ ngắn để được thuỷ triều dâng lên, nhưng vẫn cao hơn mực nước khi thuỷ triều rút đi. Khi những tàu chiến lớn của quân địch đi qua khu vực này trên đường rút lui về Trung Quốc, một nhóm những chiến thuyền nhỏ của quân Trần tấn công và khiêu khích họ đuổi theo. Khi họ đi vào trận địa được chuẩn bị từ trước, cũng vừa lúc thuỷ triều rút, khiến chiến thuyền bị kẹt vào giữa những chiếc cọc. Rất nhiều thuyền địch đã bị nhấn chìm, trong khi số khác thì không thể ra khỏi trận địa do kích thước quá lớn. Tiếp theo, những chiến thuyền của nhà Trần nấp ở các bờ sông ào ra tấn công. Bạn có thể đọc thêm ở đây: . Mất toàn bộ đội thuyền, nhà Nguyên (một phần của đế chế Mông Cổ) phải mất ít nhất vài năm để khôi phục. Một cái giá quá đắt.
13. Thay đổi cách triều đình đối xử với người dân. Xã hội Việt Nam, sau 1000 năm Bắc thuộc, được xây dựng dựa trên một hệ thống của Phật Giáo – Đạo Giáo – Nho Giáo. Nho Giáo thiết lập ra mối quan hệ trên – dưới: nhà vua – quan chức, quan chức – người dân, chồng – vợ, cha mẹ – con cái, già – trẻ để cai trị theo cách là người ở trên nắm toàn quyền để cai quản và dù cho phép người dưới làm theo ý của họ, thì người trên vẫn sẽ có những sự can thiệp. Phật giáo thì dạy con người hài lòng với những gì mình có, tránh cãi vã do điều đó gây ra đau khổm không chỉ cho cơ thể mà còn cả tâm hồn. Hai tư tưởng không mâu thuẫn, mà ngược lại, còn bổ trợ lẫn nhau. Nhưng vẫn còn một lỗ hổng: nếu người trên là kẻ xấu, đưa ra những quyết định sai lầm và lạm dụng quyền lực của họ để buộc người dưới phải tuân theo. Ai sẽ là người theo dõi và trừng phạt họ? Nếu người dưới đúng, nhưng lại bị trừng phạt vì những hành động, suy nghĩ đúng đắn của mình, thì ai sẽ là người bảo vệ họ? Đó chính là điểm yếu nhất của Nho giáo; dù người dưới có thể tìm đến những vị trí quyền lực hơn, đối với người dân, đó là quan chức, đối với quan chức thì là nhà vua. Nhưng bản thân nhà vua lại không có người kiểm soát và đánh giá những hành động của bản thân. Nếu sự suy đồi đến từ vị trí cao nhất khi những nhà vua sau này được sinh ra trong giàu sang, chưa từng được gặp người dân để hiểu tâm tư tình cảm của họ, dẫn đến việc họ tận hưởng quá mức cuộc sống giàu sang và không quan tâm đến triều chính. Các quan chức nhìn vào tấm gương đó, “làm theo”, và kết quả là một triều đại suy đồi. May mắn là, khi Mông Cổ xâm lược, nhà Trần đang ở trong thời kỳ đầu, nên họ vẫn duy trì được sự ổn định. Họ cũng hiểu được sự quan trọng của sự kết nối giữa triều đình và người dân; quan chức tham nhũng sẽ bị pháp luật trừng phạt; nhà vua và hoàng gia thể hiện giữ được sự sáng tạo và một tấm gương tốt. Niềm tin vào nhà vua và thể chế được phục hồi, phần lớn người dân ủng hộ chiến tranh với mọi thứ họ có. Nếu không có điều này, thì không có cuộc phục kích, quấy nhiễu, phản công nào có thể thành công trên quy mô toàn quốc.
14. Thay đổi cách nội bộ triều đình đối xử với nhau. Chủ nghĩa vùng miền, phe cánh phải bị hạn chế ở mức tối thiểu. Trong hoàng thất nhà Trần đã tồn tại những phe cánh ngay từ ngày đầu tiên. Đây là một câu chuyện phức tạp, nên mong bạn đọc nó từ từ. Nhà Trần thay thế cho nhà Lý năm 1206. Trần Thủ Độ là đạo diễn, kiến trúc sư trưởng cho quá trình chuyển giao này. Vấn đề nằm ở chỗ Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của nhà Lý và là 1 phụ nữ (không được Nho giáo chấp nhận cho vị trí cầm quyền) trở thành vợ của Trần Thái Tông, vua đầu tiên nhà Trần, lúc đó bà vẫn chưa có con. Lo lắng về việc không có người kế vị, Thủ Độ đã ép vợ của Trần Liễu – anh ruột của Trần Thái Tông – tiếp quản ngôi hoàng hậu. Ông đã phạm vào 2 điều: không chọn con cả làm vua, và cướp vợ của anh ta. Về cơ bản, Trần Thánh Tông, đứa con của hoàng hậu thứ 2 không phải là con ruột của nhà vua, và việc thừa nhận quyền lực tuyệt đối trong trường hợp này là trái luật do đứa con nuôi này. Nhưng Thánh Tông vẫn được chọn để tiếp quản ngai vàng, rồi ông chọn Trần Quốc Tuấn, con của Trần Liễu làm đại tướng quân. Từ đây nảy sinh ra vấn đề giữa Quốc Tuấn và con của Thái Tông là nguy cơ xảy ra việc tranh giành ngôi vua, nhất là khi Quốc Tuấn đang nắm binh quyền trong tay. Quốc Tuấn hiểu điều này, và cũng biết rằng kẻ thù đang ở ngoài kia, Mông Cổ, nếu họ đặt chân đến Đại Việt, thì sẽ không còn nhà Trần hay ngôi vua nữa. Do đó, ông đã tích cực hoà giải với con của Thái Tông, xoá bỏ mãi mãi các phe cánh trong hoàng thất.
