Tình yêu – lòng tốt, sự quan tâm trìu mến, sự nhạy cảm, cảm giác được ai đó đồng hành và tôn trọng – những cảm xúc ấy thực sự không những khó để tìm kiếm mà còn là một thách thức cực lớn đối với nhiều người.
Đặc biệt là những người gặp khó khăn trong việc chấp nhận tình yêu thương và không thể bao dung, tha thứ một cách dễ dàng. Thậm chí nhiều người còn có phản ứng giận dữ và khó chịu khi nhận được tình yêu từ ai đó hướng về phía họ.
Phản ứng có vẻ như nghịch lý này phần lớn xảy ra từ sâu trong tiềm thức, ngay cả khi cảm giác ban đầu khi 1 người nhận được lời khen khiến họ thích thú, thì sau đó ngay lập tức nó có thể gợi dậy cảm giác không tin tưởng đối với người đưa ra lời khen ấy. Và sự quan tâm ấy thậm chí có thể gây nên thái độ tiêu cực và cảm giác chỉ trích đối với bản thân người nhận được tình yêu thương.
Một người đàn ông bỗng dưng cảm thấy tức giận với vợ mình khi cô ấy lo lắng rằng việc anh đạp xe trong khu phố sầm uất là không an toàn. Mặc dù anh ta biết rằng cô không có ý kiểm soát hay phán xét. Dù anh ta nhận thức được rằng sự e ngại của cô ấy xuất phát từ sự yêu quý, quan tâm nhưng anh ta vẫn thấy tức giận.
Một cô gái bỗng dưng trở mặt và hoàn toàn khó chịu khi người bạn trai nói với cô rằng anh ấy ước rằng họ có thể sinh con. Cô ấy chưa bao giờ tỏ thái độ gắt gỏng và khác biệt như thế trước đây, và người đàn ông cũng không hề có ý gây áp lực gì về vấn đề đó, anh ta chỉ là có một cảm giác ngọt ngào và anh ta muốn chia sẻ cùng cô ấy.
Thậm chí một người đàn ông đến trị liệu tâm lý còn tâm sự rằng: anh ta thấy tức giận khi mọi người có ý khen ngợi mình.
VẬY TẠI SAO TÌNH YÊU, SỰ THỪA NHẬN TÍCH CỰC VÀ NHỮNG LỜI KHEN NGỢI LẠI KHƠI DẬY SỰ CHÁN GHÉT BÊN TRONG MỘT NGƯỜI NHƯ VẬY?
Một số nguyên nhân chính sẽ được bàn luận dưới bài viết này bởi nhà tâm lý học lâm sàng Robert W. Firestone, Ph.D (nguồn dưới bài viết).
1. Được yêu thương khơi dậy nỗi buồn và cảm giác đau đớn của một người về những gì họ đã trải qua, và khiến họ nhớ lại trải nghiệm từng bị tổn thương trong quá khứ.
Khi một người đã từng trải qua những kí ức thơ ấu đầy thống khổ, nỗi sợ bị bỏ rơi dày vò và cảm giác cô đơn từng quấn lấy họ trong những ngày tháng xưa cũ. Thì khi họ bỗng được đối xử bằng một tình yêu thuần khiết, sự dịu dàng từ ai đó trớ trêu thay lại có thể kích hoạt những ký ức cũ, khiến những trải nghiệm đau khổ ấy hiện lên rõ nét.
Chúng ta sợ bị tổn thương theo những cách mà ta từng cảm nhận từ khi còn nhỏ.
Một số người làm tổn thương người khác, để trừng phạt là làm đau chính mình. Xu hướng này dựa trên niềm tin bên trong (core beliefs) được họ hình thành từ lúc nhỏ qua cái cách đối xử lạnh nhạt và thiếu tình yêu từ người lớn, họ nghĩ rằng: bản thân họ không đủ tốt, họ tin rằng họ không xứng đáng với tình yêu, họ không xứng có được hạnh phúc (Rajshree & Glenn, 2000).
Hoặc thậm chí họ nghĩ rằng họ không thể yêu thương được. Nếu họ chấp nhận tình yêu – họ có thể sẽ phá hỏng, sẽ huỷ hoại sự thuần khiết đó và sợ ảnh hưởng lây người mang đến sự ấm áp cho họ. Sự tự trừng phạt cảm xúc lên bản thân khiến một người cảm thấy họ đang giữ được quyền kiểm soát tình huống.
Theo đó, khi chúng ta làm tổn thương người mà ta yêu thương ta cũng đồng thời làm tổn thương chính mình.
Những cảm giác tội lỗi, hối hận và xấu hổ có thể hành hạ chúng ta rất dai dẳng sau khi ta thực hiện những lời nói, hành vi lên người khác.
2. Việc được ai đó yêu thương sẽ làm dấy lên lo lắng bên trong một người, vì nó đe doạ cơ chế phòng vệ tâm lý lâu dài được một người dựng lên từ nhỏ. Cơ chế ấy được hình thành để giúp một người đỡ cảm thấy tổn thương hơn khi đối mặt với những tình huống trong cuộc sống liên quan đến nỗi đau và bị từ chối cảm xúc.
Mặc dù cảm giác được ai đó chọn lựa và coi trọng rất thú vị và có thể mang lại hạnh phúc, viên mãn. Nhưng đồng thời, nó có thể khiến một người cảm thấy sợ hãi và nỗi sợ hãi đó có khả năng chuyển thành sự tức giận và thù địch. Về căn bản, TÌNH YÊU ĐÁNG SỢ KHI NÓ LÀ MỘT TRẢI NGHIỆM HOÀN TOÀN TRÁI NGƯỢC VỚI NHỮNG TỔN THƯƠNG THỜI THƠ ẤU.
Những cơ chế phòng thủ mà 1 người tạo ra bảo vệ họ khỏi những điều ng đó nghĩ rằng sẽ mang đến nguy hiểm cho cảm xúc.
Những phản ứng tiêu cực xảy ra nhưng thiếu đi sự nhận biết rõ ràng về tình huống đó, khiến 1 cá nhân không hiểu tại sao họ lại phản ứng như vậy với người kia.
Từ đó họ tìm cách hợp lý hoá tình huống và cảm xúc mông lung đó bằng cách tìm lỗi hoặc đổ lỗi cho người kia, đặc biệt nghiên cứu tâm lý tìm ra rằng ta thường dễ trở nên hung hăng và làm tổn thương những người thân thiết nhất với mình (Richardson, 2014).
Trong tình huống đó, người được yêu cảm thấy họ phải thực hiện những hành vi, lối cư xử làm tổn thương người yêu theo một cách trừng phạt, khiến bản thân họ tránh xa và đẩy tình yêu thương đó ra khỏi họ – như một cách để bảo vệ bản thân khỏi những cảm xúc trái ngược với những gì họ biết.
3. Được yêu thương mang đến một cuộc khủng hoảng danh tính đau đớn cho người đó.
Với nhiều người đã từng trải qua cuộc sống với nhiều tổn thương, thì khi được yêu thương, họ cảm thấy rằng nếu họ chấp nhận và mở lòng với tình yêu đó – cả thế giới mà họ từng biết đến từ trước đến nay dường như sẽ thay đổi và có lẽ sẽ đối mặt với sự tan biến hoàn toàn. Và từ đó họ sẽ không còn biết mình là ai nữa.
Một người đã quen với cuộc sống nhiều cảm xúc tiêu cực và những lời kiểm soát thiếu lành mạnh, họ không biết thế giới với tình yêu và sự quan tâm vô điều kiện như thế nào, cũng như không biết phải phản ứng với nó ra sao. Thế giới tồn tại tình yêu – đối với họ thật xa lạ và bắt buộc họ phải học lại mọi thứ từ đầu.
Việc được ai đó tôn trọng, đánh giá cao cũng như công nhận giá trị đối với họ là một điều khó hiểu và khó giải thích. Vì những ý nghĩ đó dường như mâu thuẫn với những quan niệm tiêu cực mà họ từng có về bản thân. Những những hình mẫu tiêu cực đã được hình thành từ những người thân xung quanh họ, từ gốc rễ trong môi trường gia đình mà họ lớn lên.
Trong quá trình phát triển, đứa trẻ thường có suy nghĩ lý tưởng hoá bố mẹ mình như một phần của cơ chế sinh tồn. Quá trình lý tưởng hoá trong suy nghĩ này gắn liền với hình ảnh của bản thân họ (hình ảnh đó có thể là tích cực hoặc tiêu cực tuỳ vào trải nghiệm của mối liên hệ giữa họ và bố mẹ).
Dù những cảm xúc hay ý nghĩ về bản thân mình có đau đớn thế nào, con người vẫn sẵn sàng chấp nhận sự chối bỏ và thất bại vì những cảm xúc tiêu cực này có vẻ rất tương đồng và hài hoà với cách mà họ nhìn nhận bản thân.
Cho nên, việc được ai đó yêu thương khiến trạng thái tinh thần cân bằng của họ như phá vỡ.
4. Chấp nhận được yêu thương có thể khiến một người như ngắt đi sự kết nối với những tưởng tượng mà họ đã vẽ lên trong đầu về mối quan hệ với họ và bố mẹ.
Theo Fierman (1965), trong quá trình phát triển nhận thức, trẻ em học được cách phòng vệ cảm xúc bằng việc phát triển những tượng tưởng của nó với cha mẹ nhằm mục đích giảm bớt sự thất vọng và lo lắng. Bằng cách tạo ra những cảm xúc an toàn trong tưởng tượng, đứa trẻ có thể thoả mãn được một phần nhu cầu tình cảm của chúng trong những tưởng tượng đó.
Những ý nghĩ tưởng tượng mà một đứa trẻ nghĩ về bố mẹ chúng như một sự thay thế và bù đắp cho tình yêu và sự săn sóc còn thiếu trong môi trường sống của đứa trẻ đó. Giúp chúng mang lại cảm giác an toàn và giảm bớt sự thiếu thốn tình cảm và nỗi sợ bị chối bỏ.
Theo đó, giáo sư đại học của mình từng nói: “Những đứa trẻ hay trêu đùa và dám nói về khuyết điểm của bố mẹ chúng thường là những đứa có mối quan hệ lành mạnh với bộ mẹ hơn là những đứa hay nói rằng “bố mẹ tôi là người tuyệt vời nhất”.
Nhiều trẻ em lý tưởng hoá hình ảnh người mẹ và người chăm sóc, cũng như có xu hướng phủ nhận, hoặc che đậy những hành vi ngược đãi cảm xúc và xa lánh của bố mẹ. Đối với một đứa trẻ, người mà nó yêu thương nhất và dựa dẫm là bố mẹ, cho nên việc phải chấp nhận hoặc đối diện với các lỗi lầm mà bố mẹ gây nên cho chúng thực sự đáng sợ.
Do vậy, đứa trẻ hợp nhất các thái độ tiêu cực, cũng như chấp nhận suy nghĩ rằng chúng không thể được yêu thương, chúng tồi tệ, chúng là một gánh nặng,.. như một cách đứa trẻ dùng để tấn công chính mình.
Kết quả là, những suy nghĩ ấy theo chúng lớn lên. Chúng vẫn duy trì cảm giác tự bồi đắp sự chăm sóc cho bản thân, duy trì cảm giác độc lập, mang theo suy nghĩ rằng mình có thể độc lập và không cần người khác. Họ tiếp tục quá trình vừa tự chăm sóc bản thân vừa trừng phạt bản thân họ như cái cách mà họ từng được đối xử bởi người lớn.
Và khi một mối quan hệ yêu đương trở nên sâu sắc và dần có ý nghĩa, nó dường như mang lại cảm giác bị đe doạ đến người đó, và họ lại có xu hướng dùng lại cơ chế phòng vệ lúc xưa. Họ có thể trở nên xa cách và mang suy nghĩ rằng họ có khả năng tự chăm sóc mình khiến họ cực kì miễn cưỡng để có cơ hội tiếp cận tình yêu thực sự, cũng như mở lòng để tiếp nhận cảm giác được yêu thương.
5. Chấp nhận được yêu thương làm khơi dậy những vấn đề nhức nhối về sự tồn tại – về sự sống và sự kết thúc.
Tác giả Robert W. Firestone từng viết trong cuốn sách “ Fear of intimacy” [Nỗi sợ thân mật] rằng: “trở nên quá gần gũi với ai đó trong một mối quan hệ yêu đương khiến một người nhận thức rằng cuộc sống này rất quý giá, nhưng cuối cùng con người vẫn phải đối diện với sự kết thúc – vẫn phải đầu hàng định mệnh.” Chúng ta chấp nhận rằng có cuộc sống và có tình yêu, cũng có nghĩa rằng sẽ đến lúc ta đối diện với sự kết thúc sinh mệnh.
Cụ thể hơn, khi ta yêu thương một ai đó ta bắt đầu đặt giá trị của họ quan trọng hơn trong cuộc sống, vì vậy việc phải dự đoán về cái kết của mối quan hệ khiến họ cảm thấy thật khó khăn.
Nhiều người tạo ra thế giới quan mà họ đang sống và duy trì một trạng thái tâm lý cân bằng và an toàn trong thế giới đó. Việc được yêu thương hay được đối xử với cảm xúc tích cực dường như làm gián đoạn trạng thái cân bằng bên trong thế giới của họ, và để duy trì cảm giác an toàn như cũ, họ lựa chọn các cơ chế phòng vệ như xuyên tạc, khiêu khích và chọn lựa trong các mối quan hệ.
Người ta có xu hướng lựa chọn những người bạn đời giống với những người đã từng xuất hiện trong cuộc đời mà họ hiểu rõ. Những hình mẫu mà họ thấy thoải mái và phù hợp với các cơ chế phòng vệ của họ. Hoặc như thay vì xem đối tác hiện tại như con người thật của người đó – họ dùng cách bóp méo hình ảnh của đối tác cho giống với người trong quá khứ mà họ biết hơn là nhìn nhận thực tế. Tiếp nữa, họ có thể gợi ra những tình huống khiến đối tác phản ứng giống với những tương tác mà họ từng có trong quá khứ.
Và kết quả cuối cùng khiến họ hành xử ngược lại với việc chấp nhận tình yêu và duy trì mối quan hệ lành mạnh.
Cuối cùng thì, nhiều người không nhận thức được những phản ứng và nhận thức tiêu cực của họ khi được yêu thương; cũng như không biết được lí do đằng sau của nó (những lí do miêu tả ở trên) có ảnh hưởng đến bản thân và người khác.
6. Người có xu hướng “vô ái” -AROMANTIC
/người không có hứng thú, không mong muốn và không có cảm giác lãng mạn với bất kì ai/
Số người thực sự mang xu hướng vô ái không hề cao, có một nghiên cứu cho rằng có 1% trong số những người làm nghiên cứu mang xu hướng “vô tính” (không bị hấp dẫn tính dụ.c) và 25% trong số những người này thường vô ái (Antonsen và các đồng sự,2020).
Những dấu hiệu của người vô ái thường như sau: họ không trải nghiệm đc cảm giác hấp dẫn lạng mạn; họ cảm thấy không cần một mối quan hệ thu hút giới tính để cảm thấy trọn vẹn và viên mãn; họ không phải lòng hoặc yêu một ai đó; họ cũng gặp khó khăn trong chuyện tình cảm. Tuy nhiên, người vô ái vẫn trải nghiệm các giác yêu thương người khác với gia đình, bạn bè,.. chỉ là không có thu hút giới tính theo kiểu lãng mạn.
Và một nghiên cứu từ Antonsen (2020) cho thấy rằng những người mang xu hướng vô ái vẫn có nhu cầu và mong muốn chuyện tì.nh dụ.c.
Những người vô ái thực ra vẫn có những mối quan h.ệ thân mật giới tính, họ vẫn sống cùng người yêu, vẫn thể hiện tình cảm và có quan h.ệ nam nữ thậm chí kết hôn, sinh con và nuôi dạy gia đình. Tuy nhiên, cách họ nhìn mối quan hệ không giống với người khác. Có lẽ động lực của họ trong việc rơi vào một mối quan hệ là vì mong muốn khác như: sinh con hoặc có 1 gia đình, hoặc những mục đích khác khiến họ muốn ở lại 1 mối quan hệ.
Người có xu hướng “vô ái” không có nghĩa họ không cần sự quan tâm hay gàna gũi từ người khác hay sự cam kết lâu dài, họ vẫn mong nhận được những điều đó, chỉ là không phải kiểu cảm xúc lãng mạn thường thấy ở tình yêu giới tính. Họ có thể vẫn phát triển mối quan hệ dựa trên sở thích chung, sự tôn trọng lẫn nhau hoặc sự gần gũi trong cảm xúc. Tuy nhiên, những mối quan hệ như vậy thường dựa trên cảm giác thân mật gần gũi, quen thuộc hơn là tình cảm lãng mạn nồng nhiệt của tình yêu.
Và kết lại thì, nhiều người cảm thấy mâu thuẫn khi được yêu, khi họ được người kia nhìn nhận một cách tốt đẹp và giá trị, nó như đi ngược lại với cách mà họ luôn nhìn nhận về bản thân mình. Và họ cứ giứ thái độ tiêu cực của bản thân và từ chối tiếp nhận cách nhìn nhận mới của người khác dành cho mình. Họ không cho phép bản thân được yêu vì nó sẽ ảnh hưởng đến cách họ nhìn nhận bản thân, những ý nghĩ mà họ xây lên phản kháng lại cảm giác được yêu thương, quan tâm.
NẾU BẠN YÊU MỘT NGƯỜI CÓ PHẢN ỨNG TIÊU CỰC HOẶC PHÒNG VỆ KHI ĐƯỢC YÊU..
Hãy giữ các cuộc trò chuyện với người đó một cách gần gũi và cởi mở. Hãy cho họ biết rằng có một người (hoặc nhiều người thân,bạn bè) sẵn sàng lắng nghe, chia sẻ và ở bên cạnh họ. Nhưng đừng thúc ép hay bắt buộc, đe doạ khiến họ phải tiết lộ nguồn gốc của nỗi sợ hãi. Vì việc này có thể sẽ gây ra đau đớn cảm xúc.
Hãy hỗ trợ trong việc tìm kiếm các giải pháp, cũng như hỏi xem rằng bạn có thể làm gì thì sẽ khiến họ cảm thấy an toàn (tuy nhiên, đừng vì ai đó mà phải phản bội bản thân nếu như những việc làm vì người khác gây ra đau khổ cho bạn).
Hãy kiên nhẫn, vì đối phó với những vấn đề tâm lý và những cơ chế phòng vệ mà người khác đã dựng lên trong một khoảng thời gian quá lâu – họ cần thời gian.
Và cuối cùng hãy nhớ rằng: những nỗi sợ của họ, những hành vi và phản ứng của họ không xuất phát từ bạn. Đó là vấn đề ở họ, và không bao giờ là lỗi do bạn, không phải vì bạn không đủ tốt, không phải vì bạn không giỏi thấu hiểu,.. mà chỉ là vấn đề của họ thôi!
