“Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận chỉ nhờ vào một bài quyền, một cây gậy mà thu được giang sơn cẩm tú lập nên nhà Đại Tống.
Trung Hoa luôn tự hào về sự thần võ của Tống Thái Tổ thì Việt Nam ta cũng không kém cạnh khi có Lý Thái Tổ. Cả hai đều là Hoàng đế khai quốc, đều cai trị thiên hạ bằng sự nhân từ nổi tiếng của mình. Cả hai cũng đều là tướng quân với bản lĩnh võ công đứng đầu thiên hạ. Và nhờ võ công đó mà cả hai đã tạo nên những đạo quân tinh nhuệ, lập ra nghiệp lớn trăm năm.
Nếu như Tống Thái Tổ để lại côn pháp và Trường quyền thì Lý Thái Tổ cũng để lại bộ U Linh Thương Pháp đến tận ngày nay.
Tương truyền lúc bấy giờ, các thế lực phản loạn nổi lên khắp nơi, dân chúng lầm than, khổ sở. Lý Công Uẩn nhiều phen đích thân đi dẹp loạn. Nhưng do địa hình đất nước núi rừng thâm u, tịch mịch, các trận chiến thường diễn ra vào lúc chạng vạng nên với những bài thương thông thường, khả năng đánh tan quân phiến loạn rất thấp.
Bản thân Lý Thái Tổ là một cao thủ dùng thương nên đã sáng tạo ra bài thảo U Linh Thương rồi tập cho binh lính. Điểm độc đáo của U Linh Thương là có tầm sát thích cao, đường thương đâm thẳng, trực diện với kình lực lớn, kết hợp các động tác uyển chuyển, nhu cương hòa diệu. Điều đó thích hợp với lối đánh áp sát cận chiến, phù hợp với thể hình thấp bé của đa số binh sĩ triều Lý thời bấy giờ.
Chính nhờ bài U Linh thương pháp này mà Lý Thái Tổ thành công dẹp bạo loạn trong nước, đánh tan Đại Lý Đoàn Thị . Hậu duệ Lý Thái Tổ một lần nữa đánh bại hậu duệ của Tống Thái Tổ, khiến Đại Tống khiếp vía, còn Chăm Pa, Ai Lao thì lùa như lùa vịt.
Dưới đây là lời giới thiệu về U Linh Thương Pháp:
Sa La thành tẩu mã
Hô lục tướng
Thúc Sa La thành thất phược binh
Đằng đằng khí trận
Loạn mã tung thương
Khốc lược truy hình
Phong linh ảnh địa.
Dịch nghĩa:
Thành Sa La ngựa phi nhốn nháo
Phất cờ hiệu, sáu mặt dồn binh
Thành Sa La vây làm bảy bận
Khí trận truyền khiếp nhược tình quân
Người – ngựa, dày nhau cơn bão giáo
Tìm đường thoát nạn, địch theo chân
Ngã tối, chiêng khua bày đất trận.
-Quỷ Lệ-