– Khi Châu Nhuận Phát – Hong Kong đã tặng 742 triệu USD thì một người khác cũng hiến hơn 800 triệu USD, với một thiên mệnh khác !
Farnum, New York, rất sắc sảo, là một “sát thủ chốt deal” sừng sỏ, từng học Harvard, một trong những tỷ phú giàu có ở Wall Street vì sớm đầu tư vào các công ty Microsoft, Apple, Google, Amazon, Facebook… từ đầu. Lượng tiền mặt chưa kể tài sản hơn 800 triệu USD, đầu tư đang rất hiệu quả nhưng bỗng nhiên ông dừng lại tất cả và đi tìm người thực hiện một ý tưởng kỳ lạ – ko chỉ cho riêng mình. Và sau đây là câu chuyện bí ẩn mà Farnum sau cùng đã tiết lộ lý do:
“- Cách đây hơn hai năm, khi tôi đang khoẻ mạnh bình thường làm việc thì bất ngờ lên cơn đau tim đột quỵ và được chuyển gấp vào bệnh viện cấp cứu. Tôi rất chủ quan về sức khoẻ vì vẫn thường chơi golf và uống rượu với những người bạn trong giới giàu có, và cũng chẳng bao giờ tin có một cõi giới khác ngoài loài người kể cả khi chết đi. Vì di chuyển xa nên khi đến phòng cấp cứu, tim tôi đã ngừng đập, mạch cũng không còn và não bộ cũng không hoạt động nữa. Thật vậy, màn hình máy đo điện não và tim đứng yên không có một xung nhịp nào hết. Đối với các bác sĩ, khi tim bệnh nhân ngừng đập và chết não thì bệnh nhân coi như thật sự đã chết rồi. Mọi phương pháp cấp cứu khẩn cấp của những bác sĩ giỏi nhất đều đã trở nên vô hiệu, tuyệt vọng thật sự. Nhưng lúc đó, tôi vẫn chưa chết hẳn mà rơi vào một trạng thái mà trước đó tôi đã từng nghe nói đến nhưng không hề tin, là trạng thái mà khoa học gọi là trải nghiệm Cận Tử – Near Death Experience. Nghĩa là, khi đó linh hồn tôi đã rời khỏi thể xác. Đầu tiên, tôi thấy mình đang ở trong một luồng ánh sáng êm dịu, nhẹ nhàng, ấm áp không thể tả. Đó là một cảm giác lạ lùng, mọi sự dường như đều ngưng lại trong tĩnh lặng, thời gian, không gian và ký ức dường như không tồn tại nữa.
Tôi quá bối rối, còn chưa biết phải làm gì thì đã thấy một nhóm người ở đâu bước đến, trong đó có cha tôi. Cha tôi vốn là giáo sư đại học tại Li Băng nhưng khi di cư qua Mỹ, ông phải làm công việc lao động khuân vác và lái xe tải để lo cho anh em chúng tôi ăn học. Ông qua đời vì tai nạn trên đường cao tốc khi tôi còn là sinh viên nên tôi không có cơ hội báo đáp công ơn ông.
Gặp lại ông, tôi mừng khôn xiết. Cha tôi giới thiệu những người quanh đó, họ đều là những họ hàng đời trước mà tôi chưa từng gặp. Tôi hãnh diện kể cho cha nghe về những thành công của mình. Tôi kể lại hành trình từ con một người nhập cư nghèo trở thành một trong những người giàu có nhất Chicago. Kể xong, tôi háo hức nhìn cha, tôi nghĩ hẳn ông phải vui lắm nhưng bất ngờ ông nghiêm mặt lại, nói với tôi: “Thế con có mang được những thứ đó qua đây không? Con đã mang theo được bao nhiêu tiền bạc, nhà cửa, xe cộ xuống đây nào?”.
Tôi giật mình, đến thời điểm đó tôi mới nhận ra mình đã chết. Cũng ngay lúc đó, tôi ý thức được mọi danh vọng, tài sản vật chất mà tôi sở hữu chỉ là những thứ phù phiếm, hão huyền, vô ích. Cha tôi thở dài, nghiêm khắc nói: “Ngày lẫn đêm, lúc nào con cũng chỉ lo kiếm tiền, con chỉ mong làm giàu cho bản thân chứ nào có làm được gì thật sự hữu ích cho mọi người, cho cộng đồng đâu mà khoe với cha”.
Tôi câm lặng, không biết phải nói gì. Cha tôi vốn là người rất nghiêm và giáo dục con cái rất kỹ và rõ ràng ông đang thể hiện sự thất vọng với con người tôi đã trở thành. Lúc đó, một người lạ bước đến, ông khuyên giải cha tôi, rồi quay sang tôi nói với tôi về một số việc mà tôi có thể làm để giúp đỡ cộng đồng. Người đó chia sẻ với tôi khá nhiều điều về những việc sẽ xảy ra trong tương lai. Đột nhiên cha tôi nói: “Thôi con về đi! Và đừng nhìn mặt cha nữa nếu phần đời còn lại của con không thể làm được việc gì hữu ích”. Khi đó tôi không hiểu ý cha, tôi hỏi lại: “Thế cha muốn con đi đâu bây giờ?”.
Tôi chưa kịp nghe cha tôi trả lời thì người lạ mặt kia đã nói: “Đã đến lúc anh phải trở về rồi!”. Không hiểu sao vào khoảnh khắc ấy, tôi lại bịn rịn không muốn rời nơi chốn thanh bình đó. Người kia nói: “Nghe đây! Kể từ lúc này, tùy việc anh làm mà chúng ta có thể gặp lại nhau hay không”.
Tôi không hiểu nên hỏi lại: “Tại sao tôi không thể gặp lại cha tôi và các ông tại đây nữa?”.
Người kia đáp: “Chúng tôi ở nơi chỉ dành cho những người tâm thức cao cả, phát nguyện làm việc hữu ích mà thôi”. Điều vừa nghe càng khiến tôi tò mò, tôi liền hỏi người kia: “Phải chăng khi chết mọi người đều đến chỗ này?”.
Người kia lắc đầu: “Không đâu, thế giới bên này có nhiều cõi giới khác nhau. Chúng tôi là những người đang được huấn luyện để nhận lãnh nhiệm vụ trong tương lai và đang sống ở nơi khác. Chúng tôi chỉ đến đây để nói cho anh biết những việc anh có thể làm để giúp nhân loại mà thôi”.
Lúc đó, cha tôi cũng lên tiếng: “Thôi, đủ rồi, đã đến lúc nó phải trở về rồi. Một khi nó đã nghe, đã hiểu rồi thì tự nó quyết định tương lai của mình”.
Thế rồi linh hồn tôi bay trở lên nhập vào thể xác đang nằm bất động trên băng ca phòng cấp cứu. Các bác sĩ đang vây quanh tôi lúc đó sững sờ kinh ngạc khi thấy biểu đồ nhịp tim và não tôi bất ngờ bắt đầu có nhịp sống trở lại sau vài chục phút tắt lịm.
Farnum ngừng lại một lát, nhìn vào mắt tôi như muốn quan sát thái độ của tôi, xem tôi có tin vào câu chuyện vừa nghe hay không. Dĩ nhiên chuyện này có thể khó tin với người thiên về khoa học, cần bằng chứng rõ rệt, nhưng đối với người đã có trải nghiệm về tiền kiếp và tu tập tâm linh như tôi, tôi hoàn toàn hiểu và đồng cảm những điều Farnum kể lúc đó. Đúng là đã có một sự kiện chấn động và sâu sắc khiến người bạn có đầu óc thực tế này của tôi có sự thay đổi lớn đến vậy. Điều ông vừa kể cũng trùng hợp với điều ông Kris đã nói với tôi khi trước. Thế giới bên kia có nhiều cõi khác nhau. Có cõi giới của ma quỷ và cũng có cõi của những người cao cả, những bậc thánh thần. Họ có lòng trắc ẩn to lớn, không muốn thấy thế giới này bị hủy diệt nên thường trở lại để hướng dẫn, giúp đỡ nhân loại.
– Ngay lúc đó, tôi mở mắt tỉnh dậy trước sự kinh ngạc của tất cả các y bác sĩ. Họ vốn đã làm thủ tục để chuyển tôi xuống nhà xác. Trước giờ việc người có biểu hiện chết lâm sàng rồi sống lại không phải mới mẻ, nhưng các bác sĩ ngạc nhiên vì tôi đã ngừng tim chết não hơn nửa giờ, các cơ quan nội tạng cũng bắt đầu hư hoại mà tôi vẫn sống lại được. Dĩ nhiên, tôi phải điều trị thêm sáu tháng mới hồi phục hoàn toàn. Việc xảy ra ở thế giới bên kia thật khó quên và tôi càng không thể quên những dự báo về thế giới mà người lạ kia đã nói với tôi. Tôi cũng không kể với ai trải nghiệm kỳ lạ vì chắc chắn rất ít người tin. Tôi tự nghiệm ra đó là một cơ hội quí hiếm để tôi có thể thức tỉnh – vì nếu không – theo quán tính cố hữu tôi sẽ không tin bất cứ điều gì nếu không trực tiếp trải qua.
– Suốt sáu tháng sau đó ở bệnh viện, tôi đã suy ngẫm về trải nghiệm lạ lùng đó, nhất là quan sát tin tức về những điều ghê gớm sẽ xảy ra trong tương lai của thế giới này, như để so sánh với những gì người lạ kia đã cảnh báo. Từ đó, tôi từng bước thay đổi mục đích sống lẫn ý nghĩa cuộc đời, tôi suy nghĩ rất nhiều về sự thay đổi và viễn cảnh của tương lai nhân loại. Tôi biết trong hành trình tiến hóa của nhân loại đã có những người đạt đến trình độ tâm linh cao cả như những người tôi gặp ở thế giới bên kia. Tôi cũng ý thức rằng chết không phải là hết mà chắc chắn sẽ còn có đời sống sau đó nữa. Và tùy theo ý thức, hành xử cá nhân ở cuộc đời này mà khi sang thế giới bên kia người ta sẽ sống ở cõi giới nào. Từ đó, tôi tìm đọc nghiên cứu những sách vở, tài liệu liên quan đến vấn đề này, tiếp xúc với các triết gia, các học giả nghiên cứu về tương lai và tâm thức, cuộc đời của tôi đã hoàn toàn thay đổi. Tôi đã ngộ ra và nhẹ nhàng hơn rất nhiều, không còn xem của cải, nhà cửa hay tiền bạc quá quan trọng như trước nữa…”
Những điều Farnum nói hoàn toàn trùng khớp với những gì ông Kris đã nói với tôi về thế giới vô hình. Tôi gật đầu, lên tiếng:
– Tôi tin điều anh nói là sự thật. Tôi cũng tin có những người có tâm thức cao cả sống ở thế giới bên kia đang tìm cách giúp đỡ nhân loại, nhưng nếu đã biết về tương lai nhân loại thì tại sao lúc mới gặp nhau, anh lại hỏi tôi thay vì nói cho tôi biết?
Farnum bật cười, giải thích:
– Chúng ta đã rất lâu không gặp nhau. Tôi không biết rõ về anh nên muốn hỏi ý kiến của anh như cách để đi vào câu chuyện. Biết đâu anh cũng có ý kiến gì đó về việc này. Tôi đã mời anh đến đây để bàn nghiêm túc về việc này thì tôi cũng không giấu giếm gì. Người lạ ở thế giới kia đã nói rõ rằng: “Thế giới hiện nay là một ngôi nhà đang bốc cháy mà mọi người sống trong đó vẫn không ý thức được gì. Họ vẫn mải mê với việc tranh danh đoạt lợi, cướp bóc, chiếm đoạt lẫn nhau mà không biết ngày tàn và cái chết đã gần kề”. Người đó còn nói rõ: “Hầu hết các tai họa xảy ra trong thời gian sắp tới đều bắt nguồn từ sự vô cảm, dối trá, tàn ác, giết chóc, tất cả những hành vi này sẽ dẫn đến những hậu quả không thể tránh khỏi”. Nghe xong, tôi thầm nghĩ nếu đã biết mà không làm gì thì mình cũng chịu một phần lớn trách nhiệm.
Thánh Kinh cũng có nói về ngày tận thế và thời điểm ấy chắc không còn xa. Lúc đó, tôi hỏi người kia liệu nhân loại có thể tránh được sự tận diệt không? Người đó nói rằng mọi sự trong vũ trụ đều có thể thay đổi và luôn thay đổi, không có gì bất biến. Không phải Thánh Kinh nói có tận thế thì sẽ xảy ra đúng như thế. Nó có thể xảy ra và cũng có thể không xảy ra. Việc này tùy thuộc vào tâm thức chung của nhân loại. Tâm thức chung này lại phụ thuộc vào sự hiểu biết. Nếu nhân loại đủ hiểu biết để chuyển đổi tâm thức, để cùng nhau thay đổi thì may ra mới thoát được tai họa này.
Farnum dừng lại, suy tư một lúc rồi nói một cách chậm rãi:
– Tôi biết thời gian của tôi sống trên cõi đời này không còn nhiều. Biến cố kỳ lạ vừa qua giúp tôi hiểu rằng khi đã sống đến tuổi bảy mươi sáu thế này thì thời gian là cái không thể lãng phí được. Tôi biết là tôi có thể ra đi bất cứ lúc nào. Đã từng qua thế giới bên kia nên tôi không còn sợ chết nhưng tôi phải sống phần đời còn lại này thật có ý nghĩa để còn có thể gặp lại cha tôi ở cõi bên kia. Nếu tôi cứ tiếp tục sống với những ham muốn vị kỷ thì làm sao tôi được gặp lại cha tôi, người đang sống ở cõi giới của những tâm thức cao cả?
Tôi không biết cha tôi và những người kia đã chuẩn bị gì cho tương lai của nhân loại, nhưng tôi muốn được đồng hành cùng ông. Do đó, tôi muốn làm thật nhiều việc hữu ích cho nhân loại trong thời gian hữu hạn còn lại này. Nếu giải pháp cho vấn đề hiện nay là chuyển đổi tâm thức con người thì tôi phải đầu tư thực hiện vào việc này ngay. Từ đó, tôi cứ mãi suy nghĩ về việc làm sao tạo ra sự thay đổi và chợt nhớ đến công thức của anh. Do đó, tôi đã quyết định lập ra một ngân quỹ với tất cả tài sản của tôi, để hỗ trợ cho những người có thể tạo ra sự thay đổi tâm thức cho toàn thế giới. Đây không phải ngân quỹ từ thiện hay hỗ trợ nghiên cứu khoa học, càng không phải quỹ đầu tư tài chính, mà là một ngân quỹ hỗ trợ cho những giá trị mới, những giá trị giúp cho sự thay đổi đích thực có thể xảy ra. Tôi muốn anh thay mặt tôi quản lý quỹ tài trợ này để vận hành và tài trợ cho những người có thể thực sự tạo nên viễn kiến tương lai hay hành động để chuyển đổi tâm thức, tạo nên khác biệt, nhằm thức tỉnh con người càng nhanh càng tốt”.
Đến lúc này, tôi mới hiểu rõ thiện ý của Farnum và lý do tại sao ông muốn gặp tôi tại tư gia mà không có ai khác tham dự. Tôi thật sự quá xúc động trước những tâm tư của người bạn này, và hiểu vì sao Farnum quyết định trao gia sản hơn 800 triệu USD để thức tỉnh con người, cảnh báo thế giới khi trái đất này đang sắp bước vào một giai đoạn như “một ngôi nhà sắp bùng cháy” với biết bao tai ương, dịch bệnh, thiên tai, biến động kinh hoàng chưa từng có trong lịch sử nhân loại sắp diễn ra…”.
“Hãy là một cánh bướm rung động dù mong manh nhưng sẽ thể cộng hưởng tạo nên một trận cuồng phong mãnh liệt thức tỉnh con người”.
“Nhân quả đừng đợi thấy mới tin.
Nhân quả là bảng chỉ đường – hướng con người tìm về thiện lương”.