Thứ bảy, ngày 31/05/2025 19:24 GMT+7
Tào Nga Thứ bảy, ngày 31/05/2025 19:24 GMT+7
Quảng Nam chính thức sáp nhập cùng Đà Nẵng và nơi đây là một vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra nhiều người con ưu tú, tài ba và lỗi lạc cho đất nước.
Sáp nhập Quảng Nam, Đà Nẵng
Quảng Nam là tỉnh nằm ở trung tâm của Việt Nam, thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung Việt Nam. Năm 1997, tỉnh được tái lập trên cơ sở tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (hay còn được gọi là tỉnh Quảng Đà) thành 2 đơn vị hành chính là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Mới đây, Quảng Nam chính thức sáp nhập cùng Đà Nẵng.

Thành phố Đà Nẵng (mới) có diện tích tự nhiên là 11.867,18 km2 (đạt 791,15% so với tiêu chuẩn của thành phố trực thuộc Trung ương), quy mô dân số là 3.065.628 người (đạt 306,56% so với tiêu chuẩn của thành phố Trực thuộc Trung ương) và có 94 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 23 phường, 70 xã và 1 đặc khu Hoàng Sa.
Việc sáp nhập Quảng Nam và Đà Nẵng được đánh giá là bước đi mang tính lịch sử, tái cấu trúc không gian quản lý, tạo những động năng mới, tiềm năng mới, đưa chính quyền địa phương sát dân, gần dân hơn, đáp ứng cao hơn yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
Trước khi sáp nhập, tỉnh Quảng Nam là nơi có nhiều di sản văn hóa thế giới nhất cả nước với hai di sản văn hóa thế giới được tổ chức UNESCO công nhận là phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn. Ngoài ra, tỉnh Quảng Nam còn là một vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra nhiều người con ưu tú, tài ba và lỗi lạc cho đất nước.
Danh nhân ở Quảng Nam
Phan Châu Trinh (1872-1926)
Phan Chu Trinh sinh ngày 9/9/1872 tại làng Tây Lộc, xã Tam Phước nay là xã Tam Lộc, Tam Kỳ, Tỉnh Quảng Nam, mất ngày 24/03/1926 tự là Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã.
Thân phụ ông là Phan Văn Bình làm Quản cơ sơn phòng, sau vào Nghĩa hội Cần Vương làm Chuyển vận sứ. Ông theo cha học chữ và học võ, sau khi cha mất (1887) ông trở về nhà bắt đầu học theo lối cử nghiệp. Năm Canh Tí 1900, đỗ Cử nhân (thứ ba) trường Thừa Thiên năm sau đó đỗ Phó bảng và được bổ làm Thừa biện bộ Lễ.

Năm 1908, phong trào Duy Tân lên mạnh mà đỉnh cao là vụ chống thuế ở miền Trung xuất phát từ tỉnh Quảng Nam, thực dân và triều đình Huế cho là ông khởi xướng, bắt ông tại Hà Nội, giải về Huế, rồi kết án đày đi Côn Đảo. Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, ông được trả tự do trước hạn tù đưa về quản thúc ở Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) vào năm 1911. Ngay trong năm này, do yêu cầu của ông, chính quyền Đông Dương buộc lòng chấp nhận cho ông sang Pháp. Tại Pháp, ông liên lạc mật thiết với Nguyễn Ái Quốc, Phan Văn Trường. Tại đây, ông làm nghề chữa ảnh để mưu sinh và nuôi con là Phan Châu Dật ăn học; Chẳng bao lâu con bệnh mất, ông mang vết thương lòng.
Năm 1914, ông bị bắt giam ở ngục La Santé vì tình nghi tư thông với Đức ngót 9 tháng mới được thả. Năm 1922, vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông viết một bức thư dài buộc tội Khải Định 7 điều và khuyên vua về nước gấp đừng làm nhục quốc thể (quen gọi là Thất điều trần hay Thư thất điều).
Năm 1925, ông trở về nước, ngụ ở Sài Gòn diễn thuyết hai lần, rồi lâm bệnh mất tại đây vào ngày 24/3/1926, hưởng dương 54 tuổi.
Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947)
Cụ Huỳnh Thúc Kháng hiệu Mính Viên, tự Giới Sanh, sinh ngày 01 tháng 10 năm 1876 tại làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình (nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ Huỳnh Văn Phương (hiệu Tấn Hữu), một nhà nho theo nghiệp đèn sách. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Tình, người cùng quê, một phụ nữ mực thước, đảm đang.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng vốn nổi tiếng thông minh, học giỏi và sớm đạt giải cao trong các kỳ thi. Năm 1900, cụ đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương (đứng đầu kỳ thi Hương) và đến năm 1904 đỗ Tiến sĩ. Huỳnh Thúc Kháng không ra làm quan mà dấn thân vào các hoạt động yêu nước diễn ra sôi nổi những năm đầu thế kỷ XX. Năm 1905, cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng với Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp đi tìm hiểu tình hình thực tế ở phía Nam, xem xét dân tình, sĩ khí, đề xướng tân học và tìm bạn cùng chí hướng. Năm 1906, trở về Quảng Nam khởi xướng, lãnh đạo phong trào Duy tân.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (tháng 12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh cử cụ Huỳnh làm Đặc phái viên của Chính phủ đi kinh lý miền Trung để giải thích đường lối kháng chiến, kêu gọi toàn dân ủng hộ Chính phủ, ủng hộ cách mạng. Đầu năm 1947, tiếp tục hành trình đi kinh lý miền Trung, do tuổi cao, sức yếu và lâm bệnh nặng, cụ Huỳnh qua đời tại tỉnh Quảng Ngãi ngày 21/4/1947 trong niềm tiếc thương vô hạn của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ cả nước. Theo tâm nguyện của cụ, nhân dân đã an táng cụ trên đỉnh núi Thiên Ấn. Nơi đây là đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi – “Thiên Ấn niên hà” (Ấn trời đóng xuống sông).
Ngày 29/4/1947, Chính phủ tổ chức Lễ truy điệu cụ Huỳnh Thúc Kháng theo nghi thức Quốc tang.
Trần Quý Cáp (1870 -1908)
Trần Quý Cáp tên là Nghị, sau đổi thành Quý Cáp, tự Dã Hàng, Thích Phu, sinh năm Canh Ngọ (1870) tại làng Bất Nhị, nay thuộc xã Điện Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nông dân. Khi học ở trường Đốc (trường tỉnh) ông nổi tiếng thông minh trong 6 người học giỏi lúc đó: Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Quang.
Năm Giáp Thìn (1904), qua kỳ thi Hội đến thi Đình, ông trúng cách trên hai vị hoàng giáp là đình nguyên Đặng Văn Thụy (Nghệ An) và hội nguyên Huỳnh Thúc Kháng (Quảng Nam) đỗ nhất giáp đồng tiến sĩ.

Đạt được thành tích rực rỡ ấy, nhưng Trần Quý Cáp không dùng tấm bằng để tiến thân theo đường quan chức, mà muốn đem kiến thức và sở học của mình cùng một số bạn hữu có cùng chí hướng thực thi việc nâng cao dân trí, vận động cải cách xã hội. Từ một tiến sĩ Hán học, giác ngộ chủ thuyết Duy tân, ông đã trở thành con người khác, đến mức bị một số người cho là ông đã phát cuồng. Ông đi nhiều nơi trong tỉnh, đánh trống nhóm họp dân, say sưa diễn thuyết về Duy tân, đến nỗi chính quyền Nam triều phải ra lệnh cấm ông diễn thuyết.
Năm 1906, ông được lệnh bổ giáo thọ phủ Thăng Bình. Đến nhiệm sở, ông mời ngay những người biết chữ Quốc ngữ, chữ Tây về dạy cho học trò. Thực dân Pháp và chính quyền Nam triều đã nhận ra nguy cơ về những hoạt động của ông, nên chúng đã đổi ông vào làm giáo thọ ở Ninh Hòa (Khánh Hòa). Năm 1908, sau khi ông vào Ninh Hòa hơn một tháng thì ở huyện Đại Lộc (Quảng Nam) bùng lên cuộc biểu tình chống thuế cự sưu.
Hốt hoảng trước phong trào đấu tranh sôi sục của quần chúng, bọn quan Nam đầu tỉnh Khánh Hòa là Án sát Nguyễn Văn Mại và bố chánh Phạm Ngọc Quát, theo mật lệnh của Khâm sứ Trung Kỳ là Lévecque, đã câu kết với tên công sứ Pháp ở đây bắt giam ông, buộc tội “đại phản nghịch”, kết án “mạc tu hữu” (chẳng cần chứng cứ) rồi đưa ra chém ở bãi Sông Cạn (Ninh Hòa).
Trương Công Hy (1727-1800)
Thượng Thư Trương Công Hy người làng Thanh Quýt (xưa là tổng Thanh Quýt, phủ Điện Bàn, Quảng Nam ). Ông đỗ Nhiêu học rồi Hương cống dưới triều chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Là thầy dạy của ấu chúa Nguyễn Phúc Dương, cùng thời với các thầy giáo Trương Văn Hiến, Trương Văn Hạnh, sau theo nhà Tây Sơn và được trọng dụng. Đến Triều Tây Sơn, ông được cử làm Tri phủ Điện Bàn (Thái Đức), Khâm sai Quảng Nam trấn rồi Hình bộ Thượng thư, truy phong Binh bộ Thượng thư (Quang Trung, Cảnh Thịnh). Ông có nhiều công lao trong sự nghiệp giúp nhà Tây Sơn thống nhất đất nước và là một vị quan nổi tiếng thanh liêm, được nhân dân ngưỡng mộ.

Trong suốt sự nghiệp của mình, Trương Công Hy luôn là một vị quan thanh liêm, chính trực, biết lo cho dân, cho sự nghiệp thống nhất đất nước ở thời điểm đó. Trong bút tích để lại đến ngày nay, vẫn cho thấy ông là một vị quan đại thần lúc về an trí ở quê nhà, vẫn chỉ có vài mẫu ruộng hương hỏa của cha ông để lại và dành chia cho các con, dành xây dựng từ đường để thờ phụng tổ tiên…