Bạn đã bao giờ hẹn hò hay gặp gỡ một người mà trong thời gian đầu của một mối quan hệ, họ tỏ ra tràn đầy yêu thương và nhiệt thành. Nhưng không lâu sau đó, họ lại kẽo giãn khoảng cách của cả hai ra xa khi mối quan hệ “có vẻ như bắt đầu trở nên gắn bó sâu sắc?”
Hoặc như, bạn đã từng chứng kiến những người bố, người mẹ yêu thương con cái họ theo một cách lạ lẫm, họ dường như đánh đồng sự “Xa cách” và “độc lập” với “tình yêu” và “sự bền vững của tình cảm gia đình”?
Liệu bạn từng thấy một đứa trẻ đôi lúc rất yêu thương và quấn quít bố mẹ, nhưng lúc khác lại giữ khoảng cách hoặc thậm chí đối xử với bố mẹ chúng như những người xa lạ?
Nếu như câu trả lời của bạn là “đã từng biết đến một người như vậy”, thì đó cũng không phải là một điều quá lạ lẫm, vì một báo cáo cho thấy đến 5.2% người trẻ Mỹ bị ảnh hưởng bởi “Rối loạn nhân cách né tránh” (voidant personality disorder). Theo đó, những người trẻ mang phải dạng tính cách này sẽ gặp trở ngại trong việc phát triển một mối quan hệ lành mạnh với những ranh giới trong tình cảm, vì việc phải tin tưởng hay thổ lộ những tâm sự sâu sắc nhất trong lòng cho người khác đối với họ quá khó khăn.
Cũng như ở bài viết về nỗi sợ bị bỏ rơi, chủ đề này sẽ xoáy vào những người tỏ ra né tránh hoặc không thể cảm nhận sự thân mật ở một mối quan hệ. Vì sâu thẳm bên trong họ, đối diện với những mối ràng buộc tình cảm sâu sắc có nghĩa là một lần nữa cho thế giới này một cơ hội làm tổn thương họ. Họ hình thành một thói quen “đóng cửa trái tim” quá lâu, đến mức nó trở thành một phần tính cách bên trong họ từ khi nào không hay biết.
Trong từ điển bách khoa toàn thư về các tâm bệnh học (DSM-5) thì “Rối loạn tính cách tránh né” được xếp vào loại rối loạn nhân cách đi cùng với những nỗi lo âu. Sơ lược về những dấu hiệu của vấn đề này có thể kể đến dưới đây như sau (lưu ý đây là những dấu hiệu ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của một người nào đó, khiến họ dường như rơi vào trạng thái hoang mang và ảnh hưởng đến sinh hoạt. Những dấu hiệu này chỉ mang tính chất tham khảo, và lướt thêm bên dưới để xem về những điều cụ thể mà tính cách này ảnh hưởng lên các mối quan hệ gắn bó.)
– Tránh né môi trường công việc hay các hoạt động xã hội khiến họ phải đụng chạm với người khác.
– Luôn rất nhạy cảm với những chỉ trích và sự phản đối từ người khác.
– Không mong muốn tiếp xúc với người khác trừ khi họ chắc rằng người đó sẽ yêu thích và chấp nhận họ.
– Luôn lo lắng rằng sẽ bị ai đó nhìn thấu mình, và sợ hãi bị từ chối hay bị người khác cho ra rìa.
– Bị ảnh hưởng bởi những dòng suy nghĩ rằng bản thân sẽ bị người khác chế giễu hoặc bị làm mất mặt.
– Né tránh các mối quan hệ trong cuộc sống như tình bạn, tình yêu, tình thân vì nỗi sợ bị bỏ rơi.
– Đôi lúc cảm thấy bản thân cô đơn, cô lập khỏi các vòng tròn xã hội và thua kém những người khác.
– Miễn cưỡng thử các hoạt động mới trong cuộc sống vì nỗi sợ rằng sẽ làm bản thân mình thành trò cười cho người khác.
Và các triệu chứng khác cũng tuỳ thuộc vào trải nghiệm và cảm nhận riêng của từng cá nhân. Các nghiên cứu vẫn không chắc chắn về nguyên nhân cụ thể dẫn đến vấn đề tâm lý này, nhưng nhiều nhà tâm lý đề xuất rằng gene di truyền và môi trường sống là 2 yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn này.
(American Psychiatric Association, & American Psychiatric Association. (2013). DSM 5. American Psychiatric Association, 70.)
MỘT TRƯỜNG HỢP TRỊ LIỆU TÂM LÝ CÓ THẬT TỪ MỘT NGƯỜI MANG XU HƯỚNG NÉ TRÁNH
Andrea, một cô gái 28 tuổi đến văn phòng tâm lý và trải lòng về mối quan hệ của cô rằng cô thấy bối rối và không cảm thấy hài lòng về việc cô không biết mình muốn gì từ mối quan hệ, và cần gì từ những người bạn trai của mình. Andrea đã từng có một vài mối quan hệ dài lâu, nhưng cô không cảm thấy hoàn toàn tích cực về họ.
Bạn bè cô nói rằng: có lẽ cậu chưa thực sự gặp được một người dành cho mình, một người phù hợp với cuộc sống của Andrea. Cô ấy cũng công nhận rằng mình thực sự chưa gặp ai mang lại cho cô cảm giác muốn gắn bó dài lâu, và cô tin rằng cuộc đời này dài như thế, chính bản thân cô cũng không muốn phải gắn bó với ai đó lâu đến vậy. Cô cảm thấy bình thường và vui vẻ với các mối quan hệ bạn bè và cuộc sống, chỉ là được bảo rằng việc “không muốn gắn kết lâu dài” là một dấu hiệu bất thường trong xã hội.
Nhà trị liệu đã nói với Andrea rằng: việc cô không muốn cam kết dài lâu là một việc bình thường và không hề sai trái, không có bất kì sự bất thường nào ở cô cả. Cũng như việc một ai đó không muốn kết hôn và gắn bó, sinh con với ai đó là một việc không ai có thể đánh giá trừ người đó.
Andrea thừa nhận rằng việc phải duy trì một mối quan hệ lâu dài đối với cô thực sự khó khăn, dù đôi khi cố gắng, cô vẫn phải kết thúc nó vì sự đau khổ và lo lắng mà mối quan hệ mang lại cho cô. Điều khiến cô đau khổ mãnh liệt nhất chính là cô sợ rằng mình sẽ làm tổn thương người bạn đời của mình vào một ngày nào đó. Vì sâu trong cô không muốn tiếp tục còn người kia thì mong muốn và hi vọng về một tương lai tươi đẹp của hai người.
Nhà trị liệu cũng khuyến khích Andrea trung thực với chính mình và người mình yêu về những điều mà cô mong muốn, cũng như nói rõ với họ những gì cô cảm thấy và đừng vì lo sợ mà giấu diếm, vì sẽ có thể làm cả 2 tổn thương.
SỰ CĂNG THẲNG KHI PHẢI ĐỐI DIỆN VỚI CẢM XÚC CỦA CHÍNH MÌNH VÀ NGƯỜI KHÁC TRONG MỘT MỐI QUAN HỆ
Nhiều người mang xu hướng né tránh thường trải nghiệm một loạt các căng thẳng và cảm thấy kiệt quệ cảm xúc trong mối quan hệ với người khác, cho dù họ là nam hay nữ. Và những hành vi né tránh cảm xúc và thân mật này có thể được họ thực hiện với bất cứ ai trong đời mình, dù là gia đình, bạn bè hay người yêu.
Những người này thường phát triển một cơ chế nhận thức trong cuộc sống rằng: mọi việc điều phải dựa vào khả năng tự lực của bản thân họ (rằng họ là người duy nhất có trách nhiệm phải đáp ứng nhu cầu về vật chất và tình cảm của bản thân). Không lạ lắm khi nghiên cứu từ Meyer và các đồng sự (2000) tìm ra rằng những người mang nét tính cách này thường gặp khó khăn và bất lợi trong việc xây dựng một mối quan hệ hoàn hảo với người khác. Theo Marquest và các đồng sự (2012) người mang nhiều dấu hiệu của rối loạn tính cách tránh né thường đặt nhận thức về sự gần gũi với người khác ở một mức độ cảnh báo nhất định, và họ thường đề phòng cũng như bảo vệ cảm xúc của mình nhiều hơn những người khác.
Từ trong quá trình lớn lên họ đã học được rằng mình phải luôn tự mình đứng vững trong mọi tình huống trong cuộc sống mà không cần đến ai khác. Thế nên khi xuất hiện một người muốn dựa dẫm và phụ thuộc tình cảm vào họ, một người mong muốn được họ đáp ứng nhu cầu, họ sẽ cảm thấy không thoải mái và trong lòng tự dấy lên một nỗi phiền muộn bức bối và cảm giác bất công. Họ không thích việc phải đánh giá và điều hướng cảm xúc bên trong, cũng như ít có khả năng tự xác định cảm xúc của chính mình.
Đến cảm xúc của bản thân mà họ cũng không thể đặt tên, nên khi người khác mang trái tim dâng lên trước mặt họ với những câu hỏi cần giải đáp và đòi hỏi được đáp lại, họ chỉ cảm thấy bối rối và não lòng.
Cho dù họ có đang trong một mối quan hệ mà họ thật tâm đối xử với đối tác, họ cũng gặp khó khăn trong việc thiết lập một sợi dây gắn kết, hay ràng buộc sâu sắc với người kia. Nhiều người thậm chí còn chọn cách không bao giờ bước chân vào một mối quan hệ “ổn định” để tránh phải vác lên mình sự thân mật quá mức từ người khác, họ đặc biệt là từ chối hoàn toàn việc gắn kết lâu dài hay phải thề thốt về một tương lai.
Họ là những người sẵn sàng chọn các mối quan hệ không rõ ràng, những mối quan hệ “friends with benefits” hay one-night-stands. Họ luôn không tin rằng người khác sẽ ở cạnh họ và chăm sóc yêu thương họ mãi mãi, nghĩ rằng có lẽ mối quan hệ nào cũng sẽ kết thúc, rằng không có tình yêu nào kéo dài mãi mãi. Giống như cách mà họ cảm nhận được từ bố mẹ trong quá khứ – một sự thiếu thốn tình thương và quan tâm cần thiết từ người mình tin tưởng và thương yêu nhất.
Liệu điều gì sẽ xảy ra khi người mang nét tính cách này bị buộc phải đối diện và nhìn nhận cảm xúc tiêu cực của bản thân họ hay người khác?
Câu trả lời là họ sẽ muốn tự cô lập bản thân và bắt đầu hành xử một loạt các kiểu hành vi xa cách tránh né thân mật cơ thể như: nắm tay, ôm ấp và gần gũi cơ thể.
Họ cũng bắt đầu tránh xa các cuộc trò chuyện sâu sắc về vấn đề đó; họ từ chối trả lời những câu hỏi về tương lai của mối quan hệ; họ ngừng đề cập và sử dụng những từ ngữ thân mật như các câu nói “Anh yêu em”; hoặc sẽ hoàn toàn không lắng nghe và từ chối phản hồi lại cảm xúc của người kia.
Khi đi cùng nhau, họ cố tình đi nhanh hơn hoặc chậm hơn để không phải tiếp xúc với người yêu trong thời gian đó; họ cố tình bỏ qua và loại bỏ những nỗi thất vọng và mong muốn được bày tỏ cảm xúc của người kia về phía họ; ngoài ra, họ còn có thể tìm đến các chất kíc.h thích hay những thói quen tiêu cực để né tránh đối diện với cảm xúc và vấn đề của mình như tìm kiếm rượ.u bia, cờ bạc,..
Về người có mối quan hệ với người mang xu hướng tính cách này, việc cố gắng nhìn thấu và tìm kiếm điều mà người né tránh muốn là một chuỗi dài những sự khó hiểu và rối bời, họ không biết phải nghĩ như thế nào. Họ thậm chí cảm thấy mình như là người ngoài trong cuộc đời của người mà mình yêu.
Khác với những “tiêu chuẩn vàng” mà một mối quan hệ nên có về sự bình đẳng, gần gũi sẻ chia cho nhau; người mang xu hướng “trốn để bảo vệ” này không tìm kiếm một sự gần gũi sâu sắc hay muốn chia sẻ dài lâu với người khác về những điều ẩn giấu trong lòng họ. Mà theo tác giả M. Scott Peck của cuốn “Roadles travelled” về tâm lý rằng: hội chứng “I’ll desert you before you desert me”.
Một định hướng tâm lý luôn bao trùm lấy người mang xu hướng tránh né rằng không được để bản thân mình phụ thuộc tình cảm vào bất cứ ai, dù người đó có là người thân hay người mình thương mến. Những người này sống một cách tự chủ nhất có thể trong cuộc sống. Điều quan trọng ở những người này chính là họ không những không muốn trao trái tim cho người khác quá nhiều mà còn không thích việc người khác quá cần mình.
Trong trường hợp người mang tâm lý né tránh gặp căng thẳng và stress trong cuộc sống, cơ chế phòng vệ của họ càng thúc đẩy nhu cầu được tách rời từ người khác để bảo vệ bản thân. Điều mà họ theo đuổi trong một mối quan hệ đơn giản được tóm gọn lại trong một câu nói: “Chúng ta có thể cùng nhau tồn tại nhưng 2 người phải tự tìm cách tách biệt cuộc sống ra khỏi nhau”. Giống như kiểu họ cho phép bạn bước vào nhà họ, nhưng không được mở cửa khám phá căng phòng riêng của họ trừ khi họ bảo bạn rằng bạn có thể làm điều đó.
Nói thẳng thừng thì người mang rối loạn tính cách tránh né coi việc quá thân mật, phụ thuộc tình cảm vào người khác là một việc gây hỗn loạn và thật đáng sợ khi nghĩ tới. Tuy nhiên, việc một người tận sâu bên trong muốn được kết nối và thấu hiểu nhưng lại luôn chạy trốn khỏi tình yêu khi gặp nó, có thể dẫn đến những cảm xúc đau khổ và cô độc cùng cực.
Đôi khi, họ chọn cách ở lại trong một mối quan hệ dù họ không còn muốn tiến xa hơn nữa, khi mối quan hệ ấy đã đến “ngưỡng” đủ và không nên chia sẻ thêm, họ vẫn ở lại vì không muốn cô đơn hay không muốn người kia rời bỏ mình. Hoặc như, vì những giá trị xã hội rằng “không thể rời bỏ người kia đau khổ dù họ không làm gì sai” khiến họ quyết định ở lại trong một mối quan hệ như một cách đúng nhất nên làm trong tình huống đó, dù họ không còn nhu cầu biểu hiện tình cảm và sự quan tâm nữa. Đôi khi, sự lạnh lùng của họ khiến người kia đau khổ và buồn bã, nhưng người mang tính cách tránh né không thể rời đi vì tiếc nuối thời gian và công sức đã bỏ ra cho mối quan hệ, cũng như họ nghĩ rằng “mình đã đi đến đây rồi, sao lại có thể từ bỏ mối quan hệ như vậy được”?. Dù bên trong họ đã không còn muốn tiếp tục mở lòng thêm nữa.
QUÁ KHỨ THIẾU VẮNG SỰ GẮN KẾT VỚI NGƯỜI THÂN
Ngoài các nguyên nhân về di truyền thì những trải nghiệm cảm xúc tiêu cực như bị lạ.m dụng cảm xúc và thân thể, bị bỏ rơi, bị bỏ mặc cảm xúc hay những thất bại cảm xúc tương tự, thường liên quan đến dấu hiệu của các rối loạn nhân cách trong tương lai (Jeffrey, 2016). Và “nỗi sợ bị bỏ rơi” đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành xu hướng tính cách né tránh này ( Ingeborg et al, 2015). Và tất nhiên, bài viết này lại phải nhắc lại thuyết gắn bó của John Bowlby một lần nữa, vì tầm quan trọng của mối quan hệ từ nhỏ giữa một đứa trẻ và người chăm sóc. Rằng chất lượng mối quan hệ tiêu cực/tích cực đó có thể cấu tạo tương tự lên các mối quan hệ trong tương lai của đứa trẻ.
Mình đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần về ảnh hưởng của sự thờ ơ từ bố mẹ khi họ chọn cách đối xử tàn nhẫn với cảm xúc của con cái hay lơ là khi đứa trẻ cần họ bên cạnh khi nó sợ hãi, đau ốm hay tổn thương cảm xúc. Bố mẹ của những đứa trẻ này thường nuôi dưỡng nó bằng sự dạy dỗ rằng không nên biểu hiện cảm xúc và nhu cầu của mình ra ngoài, và không khuyến khích nó khóc khi buồn hoặc ồn ào khi vui. Họ thậm chí có thể mang những mong muốn xa vời về sự độc lập cần thiết mà con cái họ phải luôn có trong cuộc sống.
Những việc làm đó có thể kể đến như: Liên tục phủ nhận nỗi buồn và tiếng khóc của con họ khi còn nhỏ khi chúng thể hiện sự buồn bã và tủi hổ, sợ hãi; họ muốn đứa trẻ phải kiềm chế cảm xúc và cứng rắn hơn khi tức giận; hoặc họ rời đi nơi khác hoặc cứ bỏ mặc đứa trẻ khi chúng đang có dấu hiệu sợ hãi hay mong cầu được chú ý;..
Nghiên cứu cho thấy những người mang xu hướng tính cách né tránh này thường có xu hướng rất độc lập, ít khoan dung và cũng khó tha thứ hơn người khác. Đôi lúc họ chọn những mối quan hệ ít ràng buộc vì những trải nghiệm ở các mối quan hệ trong quá khứ, bởi những người tình từng cho họ thấy sự phụ thuộc quá nhiều của người đó vào họ. Bởi quá khứ từng bị người thân xa cách quá mức, người họ cần không có mặt, không phản hồi lại sự mong cầu yếu ớt của họ khiến họ học cách tự săn sóc bản thân và có xu hướng không muốn chấp nhận những người quá phụ thuộc vào người khác. Họ có thể nhìn nhận những đối tượng yêu đương trong tương lai là những người không đáng tin cậy, do đó, không nên gắn bó lâu dài.
Như trong trường hợp trị liệu của Andrea, việc mang xu hướng tính cách này không phải là một điều quá đáng sợ hay bất thường, trừ khi nó ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến cuộc sống của một người. Và lựa chọn sống như thế nào là việc cùa mỗi người.
Nếu bạn hay người bạn biết đang trải qua một mối quan hệ như thế, hãy thử tìm kiếm các bài về nỗi sợ bị bỏ rơi, các mối gắn kết trong quá khứ và tính cách của hiện tại, cũng như đọc về các bài trị liệu tâm lý để hiểu hơn về bản thân.
NGUỒN THAM KHẢO.
Tatkin, S. (2009). I want you in my house, just not in my room…unless I ask you. New Therapist, 62, July/August.
Eikenæs, I., Pedersen, G. and Wilberg, T. (2016), Attachment styles in patients with avoidant personality disorder compared with social phobia. Psychol Psychother Theory Res Pract, 89: 245-260. https://doi.org/10.1111/papt.12075
The Talking Cure of Avoidant Personality Disorder: Remission through Earned-Secure Attachment: https://www.ingentaconnect.com/…/0000…/00000003/art00001
Etchverry, P. E., Le, B., Wu, T. & Wei, M. (2013). Attachment and the investment model: Predictors of relationship commitment, maintenance, and persistence. Personal Relationships, 20, 546-567. DOI: 10.1111/j.1475-6811.2012.01423.x
Meyer, B., & Carver, C. S. (2000). Negative childhood accounts, sensitivity, and pessimism: A study of avoidant personality disorder features in college students. Journal of Personality Disorders, 14(3), 233-248. Retrieved from https://guilfordjournals.com/…/10.1521/pedi.2000.14.3.233
https://www.psychologytoday.com/…/avoidant-personality…
https://www.nimh.nih.gov/…/avoidant-personality-disorder
https://psychcentral.com/…/understanding-avoidant…
https://www.psychologytoday.com/…/how-deal-avoidant…
Nguyen Le Hoai Thuong / Maybe You Missed This F***king News
Mình cầu xin mọi người trước khi tự chẩn đoán thì nên đến bác sĩ tâm lý để xét bệnh tử tế và hoàn toàn. Vì tự chẩn đoán nó dẫn đến nhiều hậu quả, kiểu self-fulfilling prophecy, bạn tự mắc vào những hành vi mà bạn nghĩ bạn đang có, rồi có rất nhiều người lấy cái lí do bệnh lý ra để bào chữa cho những cái hành động không tốt của mình làm, và đổ lại rằng họ không phải chịu trách nhiệm cho những hành động này, v..v..Mình nói cái này từ một góc độ một người đã bị chẩn đoán với 3 loại bệnh tâm lý khác nhau (GAD, PD, and BPD) mà chính mình còn KHÔNG HỀ BIẾT. Lúc đầu bị panic attack liên tục nghĩ là bệnh thể chất nên đi khám bác sĩ thể chất vì tưởng bị bệnh tim, sau đó mới được điều qua phòng khám tâm lý thì mới biết. Mình hoàn toàn không ủng hộ cái cách mà nhiều bạn trẻ hiện giờ tự chẩn đoán và tự cho rằng mình có những bệnh lý, có lẽ phần nào đó cũng mong muốn cósự chú ý đặc biệt hơn. Nhưng các bạn làm như thế là thực sự không tôn trọng và phần nào coi nhẹ những người mà đã và đang đấu tranh với chính những căn bệnh tâm lý này, (như chính bản thân mình trước kia) và còn rất nhiều các vấn đề khác về mặt ứng xử và hành vi nữa.Và nếu bị thật thì các bạn cũng đừng lấy cái lí do đấy để càng ngày càng đắm chìm vào những suy nghĩ tiêu cực, và đổ lỗi cho mọi sai lầm của mình vào bệnh lý. Kể ra thì rất dài, nhưng bộ não của bạn, bạn có khả năng làm chủ, hoặc ít nhất cố gắng chịu trách nhiệm cho nó chứ đừng kiếm cớ lí do để cứ đắm mãi mình vào. Mình được kê thuốc nhưng không hề dùng thuốc, mà tự mình nhủ rằng mình phải kéo mình ra khỏi vũng đầm lầy mà mình đã bị mắc phải. 3 năm, và có những ngày không thể lôi mình ra được khỏi giường, không đi được đâu vì bị triggered bởi nắng và gió, không bước chân ra khỏi phòng, không tắm rửa cả tuần vì chán, vì không cảm giác đang sống, vì panic attacks, nhưng cuối cùng mình đã tự chữa lành được và cứng cáp hơn cả trước khi mình có những triệu chứng kia. Vậy nên mình khuyên các bạn, nếu không có bệnh thì đừng tự chẩn đoán vơ bệnh vào mình, còn nếu có bệnh do bác sĩ chẩn đoán, thì cố gắng thoát khỏi nó chứ đừng lấy nó làm lí do để cứ mãi chìm đắm và tiêu cực. Nghe thì nó có vẻ vô cảm, nhưng thực sự nó đã giúp mình và mình mong nó cũng sẽ giúp các bạn.Phương Tây thì họ cố tiêu chuẩn hóa và ghép khung mọi thứ vào lý thuyết và vào bệnh lý. Nhưng đôi khi họ quá lạm dụng điều này (vì một lí do này hay một lí do khác). Mình có một cái góc nhìn được đúc kết từ bản thân và ở khoảng giữa y học phương tây và phương đông rằng, sức mạnh tinh thần nó khiến bạn vượt qua được gần như mọi thứ, cái điều này y học phương tây vẫn còn quá thiếu. Họ tách biệt hoàn toàn lý trí với thể xác. Họ chỉ cắt ngọn chứ họ không chặt gốc. Giả dụ, Nếu bạn sốt họ sẽ cho bạn uống thuốc liên tục, chứ họ không nhìn ra và cũng không quan tâm là bạn ốm vì bạn đang sinh sống ở một nơi ẩm thấp ruồi muỗi bu nên cứ ốm liên tục. Đừng hoàn toàn bó buộc mình vào cái hệ quy chiếu của y học phương tây.
Góp ý lần cuối với bạn Hoài Thương chủ thớt.
1 là cái ảnh của bạn nó chả liên quan tới AVPD. Né tránh là né tránh, (cầm kéo) cắt đứt là cắt đứt. Nói thật chứ cái ảnh này mang đi minh hoạ cho Ghosting hoặc Philophobia mình thấy còn hợp hơn.
Mình có đi copy 1 cái ảnh trên mạng hợp hơn về AVPD, đính kèm đây.
2 là cái caption cũng lệch lạc. AVPD là NÉ TRÁNH, và cái mà nhóm AVPD sợ không phải là “thuộc về” MỘT ai đó. Họ sợ là sợ đối diện với sự đánh giá từ bên ngoài, TỪ BẤT CỨ AI – dù là gia đình, bạn bè, đồng nghiệp (số đông, trong các mối quan hệ 1-nhiều) hoặc là từ người yêu (số ít, mối quan hệ 1-1). Sợ bị đánh giá, nên tốt hơn cả là ko tồn tại ở đó. Hình dung 1 cách đơn giản nhất thì là trong buổi báo điểm tốt nghiệp ở trường, hoặc trong cuộc họp tổng kết năm tại công sở, nhóm AVPD sẽ tìm cớ ốm để được ở nhà.
3 là phân tích của bạn (hay bạn dịch từ đâu nhỉ mình không rõ) quá sa đà vào các tiểu tiết lãng mạn hay ho mà đánh mất đi các ý chính, hoặc dùng từ thừa, hoặc thậm chí là sai. Mình lấy ví dụ 1 đoạn thôi , chứ mình ko muốn cái comment này dài 10k từ đâu:
“Cũng như ở bài viết về nỗi sợ bị bỏ rơi, chủ đề này sẽ xoáy vào những người tỏ ra né tránh hoặc không thể cảm nhận sự thân mật ở một mối quan hệ. Vì sâu thẳm bên trong họ, đối diện với những mối ràng buộc tình cảm sâu sắc có nghĩa là một lần nữa cho thế giới này một cơ hội làm tổn thương họ. Họ hình thành một thói quen “đóng cửa trái tim” quá lâu, đến mức nó trở thành một phần tính cách bên trong họ từ khi nào không hay biết.”
Đây, mình phân tích chi tiết đoạn này.
– Né tránh thì đúng, còn “tỏ ra né tránh” thì sai. AVPD coi như 99% sẽ chọn né tránh trong trường hợp “ngửi” thấy mùi bị ai đó đánh giá mình/hành vi của mình, còn những người TỎ RA NÉ TRÁNH thì chưa chắc đã là AVPD (ví dụ cái bọn cố làm mặt lạnh lùng để cua gái)
– “Không thể cảm nhận sự thân mật ở 1 mối quan hệ” – cái này thì rõ là không ổn. Dùng cụm từ này thì giống như bảo nhóm AVPD là bị chai cảm xúc à? Nầu nầu. AVPD cực kỳ khó để có 1 mối quan hệ tử tế, chưa nói là thân mật để mà “cảm”. Bởi vì họ luôn chọn né, nên luôn có khoảng cách, tức là ko thể gần gũi hay thân mật, vậy thôi. Mình so sánh như này cho bạn hiểu. 1 người mất xúc giác thì sẽ ko thể cảm nhận được nước nóng, kể cả khi ngâm tay vào vài phút, và nó khác hoàn toàn với 1 đứa NÉ TRÁNH việc cho tay vào nước vì sợ ướt tay.
– “Vì sâu thẳm bên trong họ, đối diện với những mối ràng buộc tình cảm sâu sắc có nghĩa là một lần nữa cho thế giới này một cơ hội làm tổn thương họ.”
Chả nói sâu sắc, quan hệ bình thường họ cũng né nếu thấy bị đánh giá. Ước gì bạn chỉ viết là “AVPD là những kẻ rất sợ bị thế giới làm tổn thương” thì chuẩn rồi đó.
– “Họ hình thành một thói quen “đóng cửa trái tim” quá lâu, đến mức nó trở thành một phần tính cách bên trong họ từ khi nào không hay biết.” AVPD mặc dù có khác biệt với ASPD đôi chút (nhóm Antisocial), nhưng giống ở 1 biểu hiện là đều tách bản thân ra khỏi xã hội. Nếu bạn dùng từ bớt lãng mạn, chỉ viết là “Nhóm AVPD có xu hướng tách bản thân khỏi tương tác xã hội” thì đỡ hơn nhiều đó. Chứ còn “đóng cửa trái tim” thì lúc nào bạn viết về Philophobia – Chứng sợ yêu – thì hãy nên dùng.
4 là mình không rõ bạn có đọc các comment của mọi người không, nhưng khi bạn viết với màu sắc lãng mạn hoá (cộng với sự thiếu chính xác) thì hệ quả là mọi người hiểu sai. Giống như đoạn trên mình nhắc, giả định 1 bạn dính Philophobia đọc bài xong, thế nào cũng chắc mẩm “Oh, hoá ra mình bị AVPD”. Đây là 1 group mang màu sắc phổ biến kiến thức, mình thấy bạn cũng luôn để các link tham khảo 1 cách đầy đủ ở dưới mỗi bài viết (rất khoa học nhé), nên mình cũng hy vọng các bài sau này của bạn được viết cũng theo 1 màu sắc khoa học hơn.
Ý thứ 5, dành cho các bạn khác muốn hiểu AVPD cuối cùng là cái gì, mình tóm các ý chính nhé.
– AVPD là những người luôn chọn phương án né tránh trong bất cứ tình huống nào mà họ nghĩ mình sẽ (có thể) bị đánh giá.
– Cái họ sợ, chỉ đơn giản là sự đánh giá (từ bên ngoài). Không phải họ sợ yêu, sợ kết bạn, sợ ăn kem hay sợ cái gì – là sợ bị đánh giá. Có nhiều lý do cho việc sợ bị đánh giá, nhưng cái dễ hiểu nhất là do sự tự ti về bản thân, hoặc cả vụ dễ xấu hổ nữa. Lưu ý là có nhiều kiểu người sợ bị đánh giá, nhưng nếu sợ bị đánh giá rồi đi kèm với việc né => Bùm, chúng ta có AVPD.
– Trong suy nghĩ của 1 người dính AVPD, phạm vi các đối tượng có thể đánh giá mình là cực rộng – everywhere, nên hầu hết AVPD sẽ né việc tâm sự thông thường, kể cả xã giao. Cái này giống hệt dịch Covid, chúng ta sẽ nghĩ “Hm, đi ra đường là có thể ăn đòn, thôi ở nhà cho lành” – đó, chúng ta NÉ việc tương tác xã hội theo kiểu y hệt.
– Để kết thúc, mình lấy 2 case AVPD ra để các bạn hiểu.
a) Giả định vì dịch nên giờ mình không thể đi cắt tóc, kết quả là đầu mình khá xấu. Giờ phường gọi đi xét nghiệm Covid, mỗi hộ cử 1-3 người, nếu mình AVPD mình chắc chắc sẽ đẩy người khác đi, bởi vì mình sợ mọi người trong tổ xét nghiệm CHÊ TÓC MÌNH.
Đấy vậy thôi, chả cần liên quan tới tình cảm, trái tim hay thân mật gần gũi gì đâu.
b) Nếu mình (hoặc bạn thớt) thuộc nhóm AVPD, 100% là sẽ không post/comment dài thườn thượt như này đâu. Vì “nhỡ bị thiên hạ ném đá thì saooooo”….
Chà, chắc chắn mình ko dính AVPD rồi, phù!!!
Sorry trước nếu bạn thớt thấy có gì offensive, nhưng thực tình mình đọc mình chịu không nổi.