Không thể nào là thật. Tôi biết chuyện này không thể nào là thật được.
Hai ngày trước, tôi đã quyết rằng tốt nhất là rời thị trấn này. Quá nhiều người không đáng tin biết chỗ ở của tôi. Theo cách tôi nghĩ thì chúng ta có mỗi một cái mạng trên đời, tốt hơn hết là cố kéo dài nó hết sức có thể. Nếu tôi muốn lang thang khắp đất nước, vô gia cư hay gia nhập một gánh xiếc nào đi nữa, ít nhất thì tôi vẫn sẽ còn sống. Dù sao thì cũng chẳng còn gì cho tôi ở thị trấn đó- không bạn bè, không gia đình, không một công việc. Có khi tôi nên bắt đầu lại ở một nơi mới mẻ nào, một nơi không có ai biết tôi và cầu khấn rằng những vấn đề của mình sẽ không đeo đuổi đến đó.
Tôi đã lái xe lâu nhất có thể. Không một địa điểm cụ thể nào trong đầu, chỉ là phóng thẳng hướng Tây như những người tiên phong mở đường ngày trước, ngoại trừ việc tôi không phải chống chọi với bệnh kiết lị, và cứ vài trăm dặm một tôi chỉ dừng lại để đổ xăng. Tôi lái đến khi bản thân không thể mở mắt nữa, và lần đầu tiên đầu tôi gà gật xuống, tôi lựa một cái nhà nghỉ rẻ tiền nhất mình tìm được và check in. Một cô gái ốm yếu với hàm răng nhỏ xíu đưa tôi một cái chìa, và nói với tôi chỗ để tìm đá lạnh, mà cổ cũng không có vẻ gì chắc chắn lắm về điều đó. Đầu tôi mới chỉ gần chạm vào gối, và tôi thiếp ngay đi. Trừ một điều này: Tôi đã ngủ trên một chiếc giường trong nhà nghỉ, tôi biết là vậy.
Nhưng tôi tỉnh dậy trên hòn đảo đó.
Ánh nắng mặt trời nhảy múa trên tán lá cây. Đó là một ngày tươi sáng, quá sáng đối với mắt tôi, giống như đang thích nghi với ánh sáng sau khi bước ra khỏi rạp phim tối om, nhưng dù tôi có đợi đến bao lâu thì cảm giác đó cũng không biến mất. Mặt trời giận dữ thiêu cháy làn da tôi, và chưa bao giờ tôi lại có cảm nhận về ánh sáng theo cách này. Thật khó chịu. Đau đớn. Ngay lập tức tôi đã nghi ngờ mình vẫn đang mơ, nhưng thực sự quá chân thực- cảm giác bãi cỏ dưới chân, mùi muối mặn chát xộc vào trong mũi. Phía bên trái tôi là bến tàu, không một chiếc thuyền nào như mọi khi, và đằng sau tôi là khu nghiên cứu và phòng bảo vệ. Khi đang xem xét chúng một cách sững sỡ, tôi chợt để ý hai tòa kiến trúc đều trong trạng thái hoàn hảo. Đặc biệt là phòng bảo vệ vẫn còn nguyên vẹn, không có cửa ra vào bị đập tan hay hư hỏng theo cách gì cả.
Và có những tiếng động vọng ra từ bên trong.
Tôi chậm rãi bước lại gần những tòa nhà từ phía phòng bảo vệ, tránh xa các cửa sổ và cẩn thận để không bị trông thấy, tôi áp tai mình vào mặt tường. Những giọng nói bị chặn lại nhưng nghe thật quen thuộc, và tôi chật vật để nghe ra những câu từ trong đó.
Một giọng cười mà ở đâu tôi cũng nhận ra. Là Eric, người bảo vệ gác ca sáng. Là Eric đang phá ra cười. Eric, vẫn còn sống nhăn. Nghe tiếng cậu ta như vậy bỗng khiến điều gì bên trong tôi sục sôi, và tôi rời khỏi bức tường rồi đi về phía cửa. Tôi muốn nói đó là sự nhẹ nhõm khi nghe thấy tiếng Eric vẫn còn sống, hoặc một khao khát anh hùng gì đó muốn báo cho cậu ta về cái chết đang ập đến, nhưng thành thực mà nói, tôi chỉ cảm thấy sự điên tiết, hơn tất cả những gì. Một cơn thịnh nộ bùng lên trong người khi tôi bước từng bước xuyên qua bãi cỏ. Nhưng trước khi tôi kịp với lấy cánh cửa, nó bật mở, một người nào đó bước ra ngoài vào trong ánh sáng ban ngày, họ đóng cánh cửa lại sau lưng.
Terri.
Tôi đã chạy thử cái khung cảnh này cả ngàn lần trong đầu, điều tôi sẽ làm nếu có thể đặt tay lên ả, con khốn tâm thần đó, thứ góa phụ đen, rằng tôi sẽ tận hưởng khi khiến cô ta trả giá vì những gì đã làm với tôi và nhiều người đàn ông không mảy may nghi ngờ gì khác. Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ có lại cơ hội đó thật vì Terri đã chết mất trong hang động lần đó, nhưng những ngày như này mà xem xét tất cả mọi thứ, thì điều ấy dường như cũng chẳng thay đổi được gì.
Khi tôi nhìn chòng chọc xuống Terri, tôi gọi tên cô ta. Terri, còn sống, Terri, đang mỉm cười, ngước lên tôi, và tôi thấy những cảm xúc lướt qua trong đôi mắt cô ta- sự sợ hãi, nỗi đau và một thứ gì đó khác, một thứ gì đó không đúng- và rồi Terri liếc lại về văn phòng đằng sau để chắc chắn rằng cánh cửa đang đóng, trước khi nói.
“Anh đang làm gì ở đây vậy?”
“Tìm cô,” (T/N: “Looking for you,”) tôi đáp lại với cổ họng khàn đặc. Cô ta ngoái lại nhìn cánh cửa một lần nữa. Khi tôi tiến lại gần trước mặt Terri, cô ta không hề lùi lại, không cố phản kháng, chỉ bước lên trước và nói gì đó tôi không nghe được. Trong tâm trí mình, tôi chỉ muốn tóm Terri, đánh đập và bóp cổ và nghiền nát sự sống khỏi cô ta. Nhưng ngay khoảnh khắc tôi vươn tay ra, bàn tay đang tiến lại gần Terri, mắt tôi tối sầm lại.
Đêm. Tôi đứng trên bến tàu lắng nghe tiếng biển cả. Một thanh âm bất tận lôi kéo ruột gan tôi, thúc giục tôi bước khỏi nền gỗ và nhảy xuống mặt nước. Bờ biển với ánh sáng và những tiếng động của nó dường như là thứ kì lạ nhất, phi tự nhiên nhất đối với tôi ngay thời điểm này.
Cũng có những ánh sáng ở gần hơn nữa. Phòng bảo vệ sáng bừng trong đêm như một ngọn đuốc để những con mối lượn lờ theo đường xoắn ốc và va vào, nhưng không phải chỉ ánh đèn an ninh bên ngoài mà cả những ánh sáng bên trong cửa sổ. Nhưng có một thứ gì quan trọng hơn mà tôi đã để ý thấy, không phải một điểm sáng mà là một âm thanh, ngoài kia trong rặng cây phía xa khỏi những tòa nhà: Tiếng một người đàn ông bước đi xuyên qua cánh rừng.
Lặng lẽ cố không để bản thân bị phát hiện, tôi bỏ bến tàu lại sau lưng và bước lên ngọn đồi, qua phòng bảo vệ, qua ô cửa sổ sáng đèn có tiếng máy tính kêu lạch cạch và ro ro. Lần theo dấu âm thanh đó trong rừng cây, đi đến khu đất mở đầu tiên- Chúa ơi, những cái xác thối rữa đã quay lại, thậm chí cả cỗ thi thể người đàn bà cứ biến mất và xuất hiện lại- và ngang nửa bên kia hòn đảo, tôi luôn giữ khoảng cách phòng trường hợp tiếng bước chân tôi quá nặng nề. Tôi cảm thấy mình thật vụng về trong bóng tối, mất phương hướng hoàn toàn, tôi không muốn bị nghe thấy bởi bất kỳ ai mình đang bám theo cả.
Dựa trên hướng họ đang đi, tôi có một phỏng đoán khá tốt đó là ai.
Vài trăm thước từ nơi bọn thám tử giả mạo và tôi đã cố tìm cánh cửa thứ hai vào hang động, tôi tăng gấp đôi tốc độ của mình mà chẳng thèm quan tâm đến tiếng động nữa. Thật chết tiệt nếu tôi để mất dấu gã khốn đó lúc này. Và dường như tôi có vẻ ăn cứt thật, bởi vì khi tôi đến nơi đáng lẽ ra sẽ là lối vào, tôi chỉ thấy mình mình đứng trong khoảng đất mở, nhìn chằm chằm xuống những dây thường xuân và lá cây đẫm sương đêm. Tôi không thấy có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đứng đợi, nên tôi đành rúc vào sau một cây du và quan sát cẩn thận, để xem có gì bất thường, bất cứ hình ảnh hay tiếng động nào xuất hiện.
Chỉ mất chưa đến 5 phút. Không hề cảnh báo trước, một mảng cây thường xuân rậm rạp, xum xuê bật lên từ mặt đất, chỉ cách chưa đến 20 feet từ nơi tôi đang cúi người lom khom. Mảng thường xuân được gắn với một cánh cửa bị chôn dưới đất, phần gỗ trông giống như màu bùn, cả thứ đó trông cực kỳ bẩn và dây thường xuân leo rối rắm đến nỗi ai cũng sẽ bỏ sót mỗi lần bước qua. Tiến sĩ Christianson nhô lên từ mặt đất. Hắn bình tĩnh trèo lên từ một chiếc thang tôi không nhìn thấy, rồi bước ra ngoài từ hố sâu và đặt chân lên mặt cỏ. Tên tiến sĩ đóng sập cánh cửa đằng sau và ném thứ gì đó vào bụi cỏ cao rậm rạp, rồi lui vào trong rừng. Tôi đợi đến khi hắn đi mất rồi lồm cồm đi về phía trước và xem hắn đã vứt thứ gì.
Một chai whiskey gần như đã cạn, phần rượu còn lại đang ngấm dần xuống nền đất. Tôi bỏ nó lại và ấn tay mình xuống chỗ thường xuân ướt, lần tìm xung quanh cho đến khi những ngón tay tôi sờ thấy một tay nắm. Cánh cửa bí mật nhấc lên thật dễ dàng, và một khi nó mở toang ra trên bản lề rỉ sét, tôi chui vào cái lỗ, bàn chân trơn trượt trên những nấc thang kim loại lạnh lẽo dẫn xuống sâu bên dưới.
Tiếng đại dương vang vọng khắp nền đá, và chỉ có vừa đủ ánh sáng để tôi loạng choạng đi trong hang động. Không phải mặt trăng hay một ngọn nến hay đèn pin dẫn đường, mà là ánh sáng quay vòng nhấp nháy của những máy móc đang chạy trong bóng tối đã lôi kéo tôi. Một, hai cái có những màn hình con con, nhưng hầu hết chúng có kiểu dáng cũ hơn, những núm xoay và đi-ốt và đầu nạp đọc giấy cùng một mớ thứ khác tôi chưa từng thấy ở đâu ngoài trong những bộ phim đen trắng. Và một cái màn hình đang hiển thị bản đồ địa hình của một vùng, chỉ có thể là Đảo Twain đây, với những bóng đèn nhỏ gắn vào những vị trí thiết yếu. Một trong số đó đang sáng lên và kêu rừ rừ, và nếu phải đoán thì tôi sẽ đặt địa điểm này đâu đó gần chỗ xác Greg. Greg, anh chàng với những cánh tay ấy.
Khi tôi tiến đến gần những cái máy bận rộn, một trong số đó, cái máy lớn nhất, nhấp nháy như thể phản ứng lại với người khách vừa đến, và cái bóng đèn dày cộp to tướng trên đỉnh nó, cái khiến tôi nghĩ đến những chiếc đèn và lăng kính đỉnh ngọn hải đăng, kêu lên và sáng dần với sự sống. Dây tóc bên trong rực lên rồi càng ngày càng nóng dần, và ở đâu đó một máy cấp giấy bắt đầu phun ra từng đoạn dài. Mặt kính màu đỏ rực, và ánh sáng cũng vậy. Cảnh tượng ấy hớp hồn tôi còn mạnh hơn cả đại dương đã từng trước đó không lâu.
Tôi với lấy nó, chạm vào quầng sáng đang lớn dần, bước về phía màu đỏ sẫm phát quang đang mời gọi, và trong ánh sáng đỏ đang rung lên, tôi có thể thấy gì đó không ổn với bàn tay mình chỗ gần ngón tay cái, một thứ gì chưa từng thuộc về đó, và khi mọi thứ dần trở thành màu nóng bức tối tăm của vầng mặt trời đỏ, tôi nhìn ra những đường chỉ mờ màu đen dính trên da mình.
Tôi tỉnh dậy vào buổi sáng, trong chiếc xe của mình đã tập vào lề đường ở một góc khuất. Tôi chẳng thể khẳng định mình có ghé qua nhà nghỉ hay không, nhưng dựa trên ví tiền đã mất một khoản thì tôi nghĩ mình đã làm vậy. Những ngày như hôm nay thật khó để nắm bắt được tất cả những điều lặt vặt này. Biết được tôi đang ở đâu đã đủ khó rồi, chứ đừng nói đến việc tôi đã ở đâu.
Trở lại lúc hòn đảo, khi tôi với tay đến Terri, cô ta đã nói gì đó tôi không nghe được. Tôi đã dành nhiều thời gian kể từ khi đó để nghĩ về môi cô ta, cách chúng di chuyển và những từ ngữ từ khẩu hình đó. Ba từ cô ta đã nói. Tôi nghĩ mình biết chúng là gì.
“Anh chưa hoàn thiện.” (T/N: “You’re not finished.”)
Vài ngày cuối trước khi rời thị trấn, tôi bắt đầu có những khoảng đen, những khoảng thời gian dài tôi bị mất dấu. Xe của tôi sẽ không ở nơi đã đỗ. Thức ăn thì biến mất khỏi tủ lạnh. Trước khi rời đi, tôi đã đến một điểm dừng chân cuối cùng. Tôi lái đến cơ quan tuyển dụng việc làm, thứ đã đưa tôi lên hòn đảo chết tiệt đó lúc đầu. Tôi muốn tra hỏi cái tên khốn quản lý chỗ đó. Tôi cần biết liệu hắn ta có nhúng tay vào vụ này không, liệu hắn biết trước mà vẫn cố ý gửi tôi, và chỉ Chúa mới biết bao nhiêu người khác, vào cái ổ rắn đó không, hay gã đó cũng chỉ ngây thơ như tôi vậy. Nhưng khi đến nơi, tất cả những gì tôi thấy chỉ là đống tro tàn của một tòa nhà. Phần còn lại được đánh dấu bởi băng cảnh sát.
Có kẻ nào đã thiêu trụi nơi này.
