Tôi không phải kiểu người dễ bị dọa cho chết khiếp, nhưng cũng không phải loại cứ rúc đầu vào cát và né tránh sự đời, các bạn hiểu ý tôi chứ. Khi có gì đó không ổn, tôi cảm thấy điều đó, trong một khoảng thời gian. Tôi thừa nhận rằng hầu hết những thứ tồi tệ xảy ra trong cuộc sống đều có thể đổ lỗi cho con người hoặc thế giới xung quanh, nhưng tôi cũng tin rằng có những điều nằm ngoài hai phạm trù đó, ít nhất là cho đến khi chúng ta chứng minh được điều ngược lại.
Chẳng hạn như chuyện xảy ra ở trang trại xác.
Tôi đã muốn trở thành một nhà văn kể từ khi còn bé tẹo, nên hãy tha thứ nếu đôi khi ngôn từ tôi quá hoa mỹ, đó là thói quen của một cây viết rồi. Và tôi cũng khá chắc các bạn đã biết, rằng mơ ước vậy nhưng viết lách thì không đủ chi trả các hóa đơn, và mặc kệ bản thân luôn muốn kiếm sống bằng nghề viết đến nhường nào, tôi đã luôn luôn cần một công việc ban ngày để xoay sở. Thông qua bố của một người bạn, tôi rốt cuộc cũng được huấn luyện và cấp chứng chỉ nhân viên an ninh không vũ trang ngay sau khi tốt nghiệp trung học, cũng là công việc tôi làm suốt thời sinh viên đại học. Nó khá dễ, tiền lương cũng đủ tốt trong một khoảng thời gian, nhưng cuối cùng thì tôi vẫn đi tìm một công việc gì có chút tương lai phía trước. Miễn là nghề viết của tôi không thuận lợi phát triển, tôi nghĩ tốt nhất mình nên gây dựng một sự nghiệp khác. Sau khi tìm kiếm rất lâu, tôi nhận được công việc tại một trong những ngân hàng lớn – tôi sẽ không kể tên ngân hàng đó ở đây.
Sáu năm ròng tôi quần quật phấn đấu và cố leo lên nhiều cấp bậc. Đấy là khoảng thời gian trước đây 5 tuần, khi bọn họ quyết định rằng có quá nhiều chi nhánh mở ở phía Đông, cũng như quá nhiều nhân viên hoạt động tại đó. Thế là tôi bị đuổi cổ. Không chút ngập ngừng, không hề phô trương, và không cả một lời xin lỗi, cứ như vậy tôi bị tống ra đường, rồi ngay khi tôi hiểu ra cơ sự thì đã chẳng còn ai tuyển nhân viên nữa.
Khi mọi chuyện bắt đầu trở nên tuyệt vọng, tôi ghé qua văn phòng việc làm này cách nhà tôi khoảng một con phố. Tôi chưa bao giờ ưa gã quản lý chốn đấy, nhưng như đã nói, tôi tuyệt vọng rồi. Nên tôi đành bước vào và đăng ký một vị trí. Mấy người đó trông không hy vọng lắm khi tôi hỏi về những công việc ngân hàng khác, nhưng mắt họ sáng lên khi thấy trong lý lịch nghề nghiệp tôi có ghi kinh nghiệm làm bảo vệ. Hóa ra họ đang gặp khó khăn trong việc tìm người cho một vị trí canh gác qua đêm tạm thời. Chẳng cần phải nói nhiều, tôi khá do dự khi đồng ý nhận một công việc mà bản thân nghĩ là bước lùi của đời mình. Tôi không có ý nhạo báng hay làm mất uy tín nghề bảo vệ, chỉ là tại thời điểm đó thì nó không phù hợp với hướng đi tôi đang gắng hướng đến. Các bạn có thể nghĩ làm bảo vệ qua đêm sẽ giúp tôi có dư dả thời gian sáng tác, nhưng sự thật là tôi viết rất khó khi phải ở hoàn toàn một mình. Tôi sẽ cảm thấy bất an vì vài lý do nào đó, và cuối cùng thì chẳng hoàn thành được cái gì.
Vấn đề ở đây là tôi không muốn nhận vị trí này một tẹo nào, nhưng ai thì cũng có cái miệng phải ăn. Lựa chọn của tôi được củng cố bởi số tiền họ trả, vốn đã cao hơn nhiều so với lương bảo vệ thông thường. Đi ngược với phán đoán tốt hơn của bản thân, tôi chấp nhận công việc đó. Họ gọi vài cuộc điện thoại, ghi lại một địa chỉ xuống giấy và cho tôi ra về. “Nơi đó nằm trên mặt nước,” là chi tiết duy nhất họ tiết lộ. Bộ đồng phục cũ của tôi hơi chật nhưng mặc vẫn vừa. Thực ra thì tôi thấy điều đó hơi thất vọng một chút.
Tôi đến địa điểm họ ghi trên thiệp vào khoảng đâu đó lúc 5 giờ chiều, đây hóa ra là một bến tàu để đi thuyền lên hòn đảo nơi công việc thực sự diễn ra. Tôi sẽ gọi đó là Đảo Twain, vì tôi khá chắc rằng ngay từ đầu mình đã không được phép nhắc đến nó, và tên thật của nơi này cũng lạ hoắc đối với tôi, một người lớn lên gần đây. Sau cuộc trao đổi khó hiểu với một gã lớn tuổi làm quản lý bến tàu, hắn nói một câu khiến tôi suýt nữa thì quay lại và nhảy vào trong xe.
“Tôi cần kiểm tra điện thoại của cậu,” tên đó nói. Tôi bối rối nhưng cũng lôi nó ra cho gã xem. Rồi hắn nói tiếp, “Nếu điện thoại cậu có camera, tôi sẽ phải thu giữ nó.” Tôi cợt một câu, kiểu, “Có cái gì trên hòn đảo hử, bộ nữ hoàng Anh à?” nhưng hắn không có vẻ gì thích thú. Sau một phút tranh luận thì cuối cùng, tôi cũng giao cái điện thoại cho tên quản lý. Như tôi đã nói rồi đấy, ai thì cũng phải ăn để mà sống thôi. Vài phút sau, một người đàn ông còn nhiều tuổi hơn đến đón tôi lên một chiếc thuyền. Vì chỉ có mỗi hai người, cùng với tôi chẳng hiểu mô tê gì những việc bản thân đang vướng vào, tôi cố bắt đầu vài cuộc trò chuyện nho nhỏ. Ông già đó chẳng nói năng gì nhiều, nhưng ngay khi chúng tôi đến gần hòn đảo, ông ta bật ra câu bình luận qua loa sơ sài thứ hai tôi nghe được trong hôm nay, lần này dưới dạng một câu hỏi.
“Cậu đã bao giờ đến trang trại nào như này chưa?” Tôi trả lời mình đã ghé thăm nhiều trang trại rồi, và người đàn ông nói tiếp, “Không giống như chỗ này đâu, vậy là cậu chưa từng rồi.” Tôi không hiểu ông ấy đang nói về điều gì, nhưng khi đó chúng tôi đã đang tiến dần vào một bến tàu nhô ra từ bờ đá lởm chởm. Cập bến rồi. Trước khi tôi kịp hỏi thêm mình phải đi đâu tiếp, ông già kia đã bắt đầu khởi hành lại. Dường như ông ta không muốn nấn ná quá lâu. Có một tòa nhà dọc con đường trông như một trung tâm vui chơi cũ. Bởi vì chẳng có chỗ nào để đi, tôi tiến về phía tòa nhà đó. Nửa đường đi ngang qua bãi cỏ có một biển báo ghi, “Cơ sở Nhân chủng học Pháp y Đảo [Twain]”. Đó là những từ tôi thấy quen thuộc khi chúng đứng riêng rẽ, nhưng kết hợp lại thì không. Khi đang suy xét xem nghĩa của biển báo chính xác là gì, một người đàn ông trẻ mặc đồng phục bảo vệ đi vòng qua một bên tòa nhà và vẫy tôi lại gần.
“Tôi nghe thấy tiếng con thuyền,” cậu ta nói. Người nhân viên tự giới thiệu mình là Eric và đưa cho tôi một bộ đàm. Cậu ta giải thích rằng ngoại trừ một vài chiếc máy tính kết nối Internet, tất cả mọi hoạt động liên lạc trên hòn đảo được thực hiện thông qua những cách thức cổ điển. Trong trường hợp khẩn cấp, họ thậm chí còn thiết lập một trạm radio hai chiều. Tôi có hỏi vì sao mình không được cầm theo điện thoại, và nhận được câu trả lời rằng để không có bức ảnh nào bị phát tán lên mạng, một điều mà tôi cũng từng được nghe từ đồng nghiệp làm bảo vệ tại một xưởng sản xuất đá quý cao cấp, nên ừ, cũng có lý. Dù vậy, nó cũng chưa giải thích được chuyện mẹ kiếp gì đang diễn ra trên hòn đảo này.
Tôi thẳng thừng hỏi cậu bảo vệ. Tất cả những gì cậu ta đáp là, “Đi nào, tôi sẽ cho anh xem.”
Chúng tôi không bước vào trong mà đi vòng qua tòa nhà có kích thước tương đối lớn kia, rồi đi tiếp qua một tòa thứ hai nhỏ hơn thẳng vào rừng cây trải phía trước. Eric kể gì đó về chuyện hòn đảo từng được đồn là nơi chôn giấu kho báu của bọn cướp biển, nhưng thành thật thì lúc đó tôi không chú tâm lắm. Trong không gian có một mùi hăng nồng nặc, cay xộc, và ngọt, và cực kỳ kinh khủng mà tôi không thể không để ý đến. Eric nhận ra biểu cảm trên mặt tôi và hỏi, “Trước đây đã bao giờ anh ngửi mùi một cái xác chưa?” Tôi lắc đầu, không. Cậu ta nói tiếp, “Thế thì từ nay không bao giờ anh quên được nó nữa.”
Vừa lúc đó, chúng tôi đến một khoảnh đất trống mở ra giữa khu rừng, mùi hôi thối đó bốc lên đặc quánh. Bụng dạ tôi rất khỏe, nhưng kể cả vậy thì như này cũng quá mức rồi. Cảm giác như một trái cầu dâng lên và chặn cứng trong cổ họng. Có hai người, một nam, một nữ, đều tầm tuổi đại học và mặc áo khoác xám giống hệt nhau, họ đang đứng nhìn xuống những thứ trông như nhiều chiếc lồng dài, thấp được làm nên từ lưới thép mỏng. Khi chúng tôi tiến lại gần hơn, tôi có thể nhìn ra những hình dạng tăm tối bên trong lồng, như vô số mẩu rác. Cô gái kia nhìn qua phía bọn tôi và gật đầu lịch sự, nhưng anh chàng còn lại thì chẳng đoái hoái gì. Cô gái trông xinh đẹp, và tên kia thì nhìn lom khom như con bọ vậy. Mãi đến khi bước đến trên đỉnh những chiếc lồng, tôi mới nhận ra chúng đang chứa thứ gì.
Thi thể đầu tiên tôi nhìn thấy, thật ra là lần đầu tiên nhìn thấy, là của một người phụ nữ. Làn da bà ta nhợt nhạt như sáp đến mức bất khả thi, những mảng lớn đổi màu như thể vùng sáp đó đã bị thiêu đốt. Cái xác phụ nữ trông giống như đã được ai đó rải gạo khắp người, y hệt một cô dâu mới cưới. Không may là đó chẳng phải gạo. Hằng hà sa số con dòi trườn bò khắp hai chân và tụ lại trong những vết nhăn ở cổ thi thể. Hàm răng bị lộ ra của cái xác trắng tởn một cách đáng kinh ngạc, nhăn nhở với tôi, bụng nó căng phồng như một quả bóng bay vào bữa tiệc sinh nhật. Miệng tôi ướt nhẹp bởi cảm giác buồn nôn trào lên, nhưng tôi gắng nén nó xuống. Tốt hơn là đừng nhìn xuống lớp da khiếp đảm đó.
Eric giới thiệu hai người kia là Bernard và Terri, thực tập sinh từ Cơ sở [tên đã được lược bỏ], và nói còn có hai người nữa cũng đang lang thang đâu đó, cũng như người chịu trách nhiệm quản lý họ là một nhà khoa học tên Tiến sĩ Christianson. Terri có thể thấy tôi đang khó chịu, nên cô ấy đủ tử tế để giải thích rằng cuối cùng chuyện gì đang diễn ra. “Chúng tôi nghiên cứu sự phân hủy của xác người,” Terri nói. Mục tiêu là để hiểu rõ hơn về quá trình này, nhằm giúp cảnh sát giám định thời gian tử vong chính xác hơn trong nhiều tình huống, và còn nhiều thứ khác nữa.
Tôi liếc về hướng 5, 6 chiếc lồng khác, cô ấy giải thích thêm là để tránh bọn chim chóc, rồi tôi hỏi rằng có bao nhiêu cái như vậy trên đảo. “Số lượng thì biến thiên,” Terri đáp, “nhưng thường thì loanh quanh đâu đó khoảng 50 cái.”
Năm mươi cái xác. Một hòn đảo. Không một cái thuyền nào.
Họ nói gì đó về hẹn-gặp-lại-sau-nha và rồi Eric dẫn tôi đi quanh phần còn lại hòn đảo, đầu tiên là để chỉ ra vài khu trữ xác khác – nhiều thi thể hơn, vài cái được xếp trong lồng, một số khác lại không – và bắt đầu đi một vòng trọn chu vi bờ biển. Cậu ta dặn tôi phải thực hiện ít nhất hai chuyến như vậy trong ca gác, mà tôi cũng đang nhẩm chắc mình sẽ bỏ qua thôi. Mất khoảng 45 phút để quay lại bến tàu, nơi mà tôi để ý là con đường duy nhất để đến hoặc rời đi khỏi đảo, mà không phải mạo hiểm sóng triều nghiền nát con tàu vào bãi đá chông và vòng rác thải nhầy nhụa. Lúc đó thì mặt trời đã bắt đầu lặn xuống. Eric dẫn tôi vào khu nghiên cứu chính, tôi đoán rằng tòa nhà này được chuyển đổi từ một trung tâm thể thao phải từ 50 năm trước. Chúng tôi nhìn quanh khu điều hành, và tôi thấy phía đằng sau đầu của ai đó bên trong một căn phòng, nhưng ngoài ra thì không có gì đáng nói lắm. Tôi nghĩ khi đấy thì đầu tôi đã quay vòng vòng và chẳng thể tiếp nhận thêm thông tin gì nữa rồi.
Chúng tôi rời khu chính và đi về phía tòa nhà thứ hai nơi sẽ là phòng bảo vệ. Eric chỉ ra đâu là phòng tắm, tủ đồ khóa, khu vực ăn uống với tủ lạnh đầy ắp, những chiếc đèn pin, và một cái bàn với bộ radio hai chiều, và cậu ta hướng dẫn tôi cách sử dụng, cơ mà lúc đó, Eric cứ tự liếc đồng hồ của mình. Cậu ta mỉm cười và hỏi tôi đã sẵn sàng chứ. Tôi nhún vai, cử chỉ thành thật nhất tôi có thể.
“Thành thật với anh này,” Eric nói, “hầu hết người ở đây không trụ được lâu. Đặc biệt là những ai làm ca đêm.”
“Cảm ơn nhé.”
“Nếu anh bỏ qua khía cạnh tâm lý, đây chắc là công việc dễ nhất trần đời rồi. Nhưng mà về cái mặt tâm lý…” Cậu ta nói nhỏ dần, và tôi biết chính xác hàm ý Eric. Liệu có gì dễ dàng hơn việc đảm bảo một đống thi thể vẫn cứ chết cứng đờ y nguyên như thế? Và nghĩ là vậy nhưng khi mặt trời lặn xuống, lòng tôi ngập tràn nỗi khiếp đảm, cái kiểu khi mà bạn muốn gào lên và chạy không theo một hướng cụ thể nào cả. Trước khi tôi kịp nắn lại dòng suy nghĩ, tiếng một con thuyền cập bến vang lên, và với một cái gật đầu cùng vài phút cuối dặn dò về cách ghi sổ nhật ký, Eric rời đi.
“Chuyến tiếp theo sẽ là 3 giờ sáng,” cậu ta hét lên từ phía bên kia bãi cỏ, một thông tin dường như quá quan trọng để thông báo ở những giây cuối cùng. Trước mặt Eric là hai thực tập sinh tôi đã gặp, Bernard và Terri, cùng với hai người khác. Terri vẫy chào, và tôi vẫy lại làm vẻ như không hề hấn gì. Một người đã đứng chờ sẵn trên thuyền, không phải ông lão vận hành nó, từ khoảng cách xa tôi chỉ thấy lờ mờ bộ râu người đàn ông. Tôi đoán đó là Tiến sĩ Christianson, dù vậy cũng chẳng có cách nào xác minh được.
Sau khi con thuyền lừ đừ đi mất và tiến thẳng vào đất liền, tôi nhìn quanh hòn đảo mờ mịt, nơi trú ngụ của tôi và 50 cái thây thôi rữa khác, tự hỏi bản thân sao mình lại ở đây như này. Chỉ một tháng trước tôi vẫn còn ngồi sau bàn làm việc trong một ngân hàng ấm áp. Thật phi thường cách cuộc sống chuyển mình nhanh đến vậy dưới gót chân con người.
Tôi rút về trong phòng bảo vệ và quyết định ngay rằng sẽ ở đó đến khi con thuyền tiếp theo đón lúc 3 giờ. Khóa chặt cửa. Kệ mẹ mấy lời hứa, kệ cha công việc tạm thời và kệ bà Cơ sở Nhân chủng học Pháp y Đảo Twain, tôi sẽ không mò mẫm trong đêm đen trên một hòn đảo toàn xác chết, dù chúng có ở trong lồng hay không. Chẳng có cách nào để ai đó biết được tôi đã đi tuần tra đủ các vòng hay chưa, và tôi thấy thật khó tin chuyện có người sẽ muốn đi lên hòn đảo, chứ chưa nói đến việc cập bến và lẻn qua tôi không bị phát hiện.
Có Internet để giết thời gian, may mắn thay, và nhờ vậy tôi vượt qua được vài giờ đầu vô lo vô nghĩ. Trước khi tôi kịp nhận ra, đồng hồ trên cửa ra vào đã chỉ 9 giờ 20 phút. Bên ngoài trời tối đen như mực, trong khi bên trong lại quá yên tĩnh, tôi bật vài video ca nhạc lên và để chúng phát làm nhạc nền, một danh sách dài nhiều bài rock cổ điển cùng một file văn bản để tôi nghĩ về việc khám phá vài ý tưởng viết truyện thú vị. Chẳng mấy ngạc nhiên, phần lớn chúng đều là về bọn zombie sống lại và tấn công loài người. Dù thế, không có gì đọng lại lắm, và tôi bắt đầu có cái cảm giác bất an mỗi khi cố sáng tác một mình. Sau một vài phút cố gắng, tôi đành dừng chống cự và đóng file lại, và kế tiếp là hai mắt.
Tôi không chắc mình đã thiếp đi bao lâu. Điều tôi biết là thứ gì đã đánh thức tôi dậy. Với hai mắt vẫn đang nhắm nghiền, tôi bắt đầu nhận ra có một âm thanh ẩn dưới tiếng nhạc; list các bài hát vẫn vang lên từ loa máy tính, và tiếng động kia dù yếu ớt nhưng đang ngày một to dần. Nó vang lên từ đâu đó phía xa xăm hòn đảo, nhưng tôi có thể nghe nó rõ rành rành như bất kỳ thứ nào khác.
Và tôi biết chuyện này nghe có vẻ điên thật. Tôi thực sự biết vậy. Nhưng đó là tiếng một người phụ nữ đang khóc.
Khi nhận ra điều này, mắt tôi bật mở. Tôi nhảy ra khỏi ghế, nhặt vội bộ đàm cùng đèn pin rồi phóng ra khỏi căn phòng, đèn pin bật sáng khi chạy vòng qua tòa nhà. Tôi dừng lại một giây, rọi đèn vào khu rừng không thấy gì ngoài những thân cây và cành lá. Một thoáng vụt qua khi tôi tự hỏi liệu bản thân có thực sự nghe thấy tiếng khóc hay đang nửa tỉnh nửa mơ, cái kiểu ngủ thiếu giấc sẽ đùa cợt với người ta ấy, thì một tiếng hét vang lên, chắc chắn là tiếng phụ nữ thét, và tôi lao vào khu rừng. Tôi chỉ có thể nghĩ là một đứa ngu xuẩn nào đó đã tìm được đường lên đảo, có khi một tụi con nít đần độn muốn tìm cảm giác mạnh và đã tự làm đau chính mình trong khi tôi đang gác. Tôi sẽ phải chỉnh sửa nhật ký thật cẩn thận để bao biện cái thân mình về vụ này.
Mùi thối đã trở nên quen thuộc xộc vào mũi tôi khi chạy đến khoảng rừng trống đầu tiên. Ánh đèn pin chiếu vào phần kim loại của những chiếc lồng. Tôi dừng chạy. Và tự hồi tưởng lại, bản thân đang ở đâu và lý do tôi đã tự nhốt mình trong phòng. Những cái lồng này chỉ nằm im đó trong bóng tối. Xác chết ngó lên chằm chằm. Dòi bọ và ruồi nhặng. Tiếng khóc đã nín lặng khiến tôi nghĩ rằng mình đang bị chơi khăm một vố, hoặc tệ hơn: tôi đã đến quá trễ để giúp ai đó đang gặp nạn.
Tôi làm việc mà đã thề sẽ không làm, mà cũng chính là công việc họ đã thuê tôi. Với phần lớn do dự trong đầu, tôi bắt đầu đi tuần tra vài vòng. Hoặc là tôi sẽ tìm thấy người phụ nữ, tôi tự ngẫm, hoặc là tôi có thể thành thật báo với Tiến sĩ rằng tôi đã bảo vệ hòn đảo khi họ tìm thấy một thi thể vào sáng mai. Thì, một thi thể nữa. Một cái xác mới toanh. Khi đi bộ dọc rìa hòn đảo, tôi tự chế ra một câu đùa trong đầu, rằng họ có thể kệ người phụ nữ đã chết ở nơi họ tìm thấy xác bà ta và chỉ cần bổ sung nó vào danh sách khách ghé thăm hòn đảo. Câu đùa đó luôn kết thúc với tôi nói, “Không có chi nha.”
Thành thật mà nói, tôi đã không đi đủ một vòng chu vi, nhưng cũng gần đủ một vòng. Tôi chẳng tìm thấy thêm gì ngoài một con cua móng ngựa đã rỗng một nửa, nên đành rẽ ngang về trảng rừng trống đầu tiên nơi tôi thề rằng mình đã nghe thấy tiếng người phụ nữ khóc phát ra từ đó. Tôi bước chầm chậm phòng khi gặp phải một khu chứa xác khác, đặc biệt là loại mà không có lồng, thứ tôi không hề muốn vấp phải trong bóng đêm ngay cả khi chúng có những lá cờ vàng nho nhỏ đánh dấu vị trí. Có lẽ mùi thối sẽ cảnh báo tôi trước tiên, ngoại trừ những cỗ thi thể đã ở đó quá lâu, vô số mảnh xương vụn vẫn còn chất ngổn ngang, vẫn còn hôi thối nhưng không còn nồng nặc bằng. Chẳng cần nói nhiều, tôi thấy thật nhẹ nhõm khi đến khu đất trống.
Luồng sáng từ đèn pin rọi qua đỉnh những chiếc lồng khi tôi bước đi giữa chúng, dùng chúng như chỉ dẫn để đi về văn phòng nhưng đồng thời cũng không thực sự chú tâm. Vì vài lý do nào đó chẳng hiểu được, có thể bởi mắt tôi bắt gặp thứ gì khang khác trong màn đen, hoặc vì đã nhận thấy sự thay đổi trong không khí, tôi chiếu đèn vào chiếc lồng cuối cùng, cũng là cái đầu tiên tôi đã thấy nhiều giờ đồng hồ trước, nơi chứa xác người phụ nữ sưng phồng nhe nhẻn cười lên với tôi.
Chân tôi khựng lại. Và tim cũng ngừng đập. Thứ ánh đèn pin rọi xuống, thứ tôi thấy khi nhìn xuống, đã thay đổi tôi vĩnh viễn. Và tôi biết rằng nghe điên thật. Tôi thực sự biết vậy. Nhưng cái lồng đó trống không.
Tôi tiến gần để nhìn rõ hơn, vì chẳng lẽ nào thứ tôi đang chứng kiến lại là sự thật, nhưng tôi thất kinh khi thấy đúng thực như vậy. Cái xác đã biến mất, thứ duy nhất còn sót lại là một vạt cỏ héo úa kéo dài, một vũng những chất dịch gần khô cong và nhiều mảnh của thứ gì nhìn giống da thuộc, nhưng tôi biết chắc đó không phải da thuộc. Cái lồng bao quanh vẫn còn ở vị trí y nguyên như tôi từng quan sát. Chỉ có thi thể là đã mất hút.
Giữa lúc tôi nhìn chằm chằm xuống cái lồng rỗng, bộ đàm bỗng kêu lên cạch cạch trong túi. Nó khiến tôi nhảy dựng một chút, âm thanh bất thình lình trong buổi đêm khuya, và tôi lôi bộ đàm ra từ chiếc túi nơi đã đặt nó vào trong vòng tuần tra đầu tiên. Nhưng nếu âm thanh đầu tiên đã khiến tôi giật nảy người, âm thanh thứ hai làm da tôi sởn gai ốc hơn cả những cái xác phía sau lưng.
Một người phụ nữ đang thì thào ở đầu bên kia. Tôi vặn âm lượng lên và dí loa vào tai để nghe cho rõ. Những từ ngữ quá bé để nghe ra được, chỉ có âm giọng phụ nữ là rõ ràng và giống như tiếng của người đã từng gọi vọng ra từ đâu đó trong rừng cây. Tôi ngập ngừng đưa bộ đàm lên miệng và ấn nút bên rìa.
“Xin chào? Ai bên kia đó?” tôi cố nói như thể mình đang làm chủ tình huống, nhưng chẳng thuyết phục một tẹo nào. Tôi buông nút bấm ra và đặt loa vào gần tai, gắng nghe ra những lời thì thầm vọng lại.
Một tràng cười. Của một người phụ nữ, the thé và mê sảng rú lên từ loa.
Bản năng vùng dậy và tôi cắm đầu cắm cổ chạy. Khỏi những lồng chứa và rời khu đất trống, vào trong rừng và ra khỏi những hàng cây, lặp đi lặp lại cho đến khi tôi đang phi giữa hai tòa nhà, chạy vào văn phòng, dập cửa thật mạnh và khóa chặt lại. Mạch máu ở cổ hãy còn dộng thình thịch, tôi cố giữ vững bản thân bằng cách chống tay lên bàn, hít những hơi thật to thật sâu vào phổi.
Mùi không khí. Cũ kỹ, ôi thiu. Không chỉ vậy mà còn thối rữa. Ngọt tanh và cay xộc đến kinh tởm, mùi của những cái xác đã tràn vào phòng bảo vệ theo một cách nào đó, dù không hề có khu xác nào gần đây, ngay cả với một luồng gió mạnh đưa chúng đi khắp hòn đảo. Là khắc đó, khi tôi đẩy người thẳng dậy khỏi bàn làm việc, tôi nghĩ lại về cỗ thi thể bị mất tích. Cái xác người phụ nữ đã biến mất. Giọng đàn bà trên radio, những tiếng thì thào và tràng cười điên dại. Là khắc đó, tôi choàng nhận ra, rằng không phải chỉ có mỗi mùi hôi thối đã chui vào tòa nhà.
Tôi nhìn xuống tay mình – một vệt bẩn bị nhòe của thứ gì màu đen dính ở lòng bàn tay. Trên mặt bàn cũng có vết y hệt như vậy.
_____________________
Và rồi sau tủ quần áo, thi thể bật ra và gào thét. Nhưng hóa ra chỉ là mấy thằng thực tập sinh đã chôm nó và dựng một trò đùa, nhỉ?… nhỉ?
_____________________
u/vkbluestar (134 points)
Ông có trụ được đến đêm thứ 5 không?
>u/SwampAssasin_45 (13 points)
Đêm đầu tiên đáng ra phải dễ ợt.
_____________________
u/TehSecretHunter (29 points)
> Bật video nhạc rock cổ điển
ĐỪNG CÓ LÃNG PHÍ NĂNG LƯỢNG NỮA!!
_____________________
Translator’s note: Một cái xác phụ nữ biến mất giữa đêm (lồng chứa còn nguyên). Vệt màu đen trên bàn trong phòng bảo vệ.
_____________________
Dịch bởi NPWL
