Tôi là người sống sót sau một tai nạn máy bay 10 năm trước. Những điều đã thấy sẽ mãi ám ảnh tôi suốt phần đời còn lại – P2

Ngày 2

Tôi biết điều mình nhìn thấy đêm đầu tiên ngoài máy bay hoàn toàn phi logic, nên đã nhanh chóng đồng ý với Will và Norton rằng hẳn đã có một con gấu kéo cái xác đi, tuyệt nhiên không hé lời với họ về những gì tôi chứng kiến. Có lẽ vụ va chạm đã khiến tôi bị sốc chấn thương và tưởng tượng ra điều không có thật.

Vào ngày thứ 2, khi mọi người thức dậy, chúng tôi tập trung lại để bàn bạc và bắt đầu lên kế hoạch. Thức ăn dự trữ đủ dùng cho ba ngày, nhưng nếu tất cả mắc kẹt lâu hơn thì sao? Đây là chuyến bay đường dài và khu vực chúng tôi bị lạc vào còn rất lớn nữa, việc giải cứu có chậm trễ cũng là điều dễ hiểu.

Amber đã cố gắng dò tín hiệu lần nữa trước khi pin cạn. Tôi bảo cô ấy tắt điện thoại cho đến khi chúng tôi tìm đến một khu vực cao hơn. Mitch quyết định thu thập gỗ, còn Norton chuẩn bị bẫy thỏ hoặc cho bất kỳ động vật nào khác có thể tìm thấy. Công việc của Will là di chuyển các thi hài ra xa khỏi máy bay, để ngăn con gấu lại gần mọi người.

Còn trách nhiệm của tôi là tìm một ngọn đồi để leo lên hoặc bất cứ thứ gì giúp tất cả sống sót . Mitch lưu ý tôi đừng đi quá xa trong bất kỳ trường hợp nào, đồng thời đưa tôi một thỏi son để đánh dấu vào thân cây, không sợ lạc. Tôi khoác balo lên vai, cầm theo một thanh năng lượng và chai nước lọc rồi rảo bước. Tôi cũng muốn mang đi một con dao, nhưng mọi người chỉ có duy nhất cây rìu có sẵn ở máy bay để phá cửa phòng khi khẩn cấp và cũng được trưng dụng để chặt củi rồi.

‘Với lại, nếu bị con gấu nhìn thấy, thì coi như chúng tôi mất anh, mất luôn cả cái rìu’ – Mitch phân bua.

‘Giờ thì nhớ kỹ đây’ – Norton vừa nhắc nhở vừa hộ tống tôi ra khỏi nơi trú ẩn – ‘Nếu gặp phải con gấu rừng, hãy chơi trò giả chết. Nó có thể lật qua lật lại anh vài vòng đấy, nhưng miễn là anh không di chuyển thì mọi thứ đều ổn thỏa tươm tất thôi. Còn nếu là một con gấu xám Bắc Mỹ-’

‘Tôi biết. Hét vào mặt nó đến khi nó bị xúc phạm ghê gớm và bỏ chạy’ – Tôi mau mắn cắt ngang.

‘Hãy tạo cho mình một tư thế uy nghiêm đầy quyền lực. Anh phải làm nó cảm thấy bị đe dọa’

‘Làm thế nào để phân biệt xem đó là gấu rừng hay gấu xám?’ – Tôi thắc mắc.

‘Những con Grizzlies có một cái bướu trên vai. Tôi đoán vậy.’

‘Đoán?’ – Tôi nhướng mày bất an.

‘Nghe này, miễn là anh cứ gào tán loạn lên, thì gấu nào cũng phải biết đường mà tránh xa.’

“Làm sao anh biết điều đó?”

‘Tôi xem trong chương trình sinh tồn của Bear Grylls. Ồ, và đừng chạy. Mấy con gấu sẽ coi anh là con mồi nếu anh bỏ chạy và sau đó đầu anh sẽ bị vặn đứt lìa rồi đi tong đấy.’

Tôi dấn bước trên con đường của mình trong khi mọi người vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ. Thi thoảng, tôi hét lên để hù dọa bất cứ con gấu nào có ý định xớ rớ đến tôi. Các thân cây được đánh dấu bằng son môi sau mười, hai mươi bước hoặc hơn. Địa hình gồ ghề khiến mắt cá chân tôi bị trật mất mấy lần, vậy nên sau một giờ đồng hồ, tôi nhận rằng mình đã đi cách trại quá xa.

Trong suốt thời gian đó, tôi chạy hết dốc này dốc nọ, nhưng tuyệt nhiên chẳng có ngọn đồi lớn hay bất cứ thứ gì, chắc phải leo lên một ngọn cây thôi. Tôi bắt đầu quay lại lối đi, cũng phải mất khoảng thời gian kha khá. Cứ lần theo những cái cây trong khoảng nửa giờ, tôi dừng bước, chết đứng.

Chữ X mà tôi đánh dấu trên cây đã bị nhòe rõ ràng. Đáng lẽ nó phải là con sóc hay gì đó cơ, nhưng cái này thì khác. Vệt son chảy dài xuống khoảng ba gang, như thể ai đó đã trượt cả bàn tay qua vỏ cây. Tôi nín thở khi kiểm tra xung quanh và đột nhiên nhận ra sai lầm ngu ngốc, quá ngu ngốc mà tôi vừa gây ra một lần nữa. Tôi đã quên để ý tới sự im ắng khác thường trong khu rừng. Đột nhiên, tôi biết mình đang bị theo dõi, băn khoăn giữa hai lựa chọn: hét lên đuổi gấu hay ngậm mồm lại để tránh gây sự chú ý, vì đằng nào đi chăng nữa thì cái thứ chuyên rình rập này chưa chắc là một kẻ săn mồi thông thường. Tôi chọn phương án thứ hai và âm thầm tiến về trại, co rúm lại vì những chiếc lá vô tình cứ rào rạo giòn tan dưới chân.

Tôi nhìn qua vai hết lần này đến lần khác, luôn sợ mình sẽ đối mặt trực tiếp với điều gì đó người thường không hiểu được. Càng đi xa, cảnh vật càng lặng như tờ. Hay là tôi đang đi thẳng vào vòng tay kẻ địch nhỉ? Khi tiếp tục giẫm phải một chiếc lá, tôi dừng chân. Có thứ gì lạo xạo đằng sau. Tôi không chắc là do tiếng vang hay trí tưởng tượng, nhưng dù gì tôi vẫn quay lại và nhanh chóng đảo mắt xung quanh. Không có gì ở đó cả. Vậy tại sao tóc gáy lại dựng đứng lên và tôi sợ hãi tới trần trụi thế này?

Tôi từ từ kiểm tra thêm lần nữa và dán mắt vào một cái cây. Rồi tiếng hét của tôi bật tung trong vòm họng khi định hình được thứ mình đang nhìn là một sinh vật đen thui mang dáng vẻ con người len lén vụng trộm sau tán lá. Nó đang di chuyển và nhìn thẳng vào tôi, với một tay đu lấy thân cây. Tôi với nó trợn mắt đăm đăm, nó nghĩ tôi không phát hiện ra mà. Tôi cố thuyết phục bản thân rằng đây chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng thôi, như lúc bạn chết khiếp vì nùi quần áo trên ghế ấy. Tuy nhiên, số phận trớ trêu thay, cái thứ đó khẽ động đậy bàn tay.

Khoảng cách xa khiến mọi thứ quá là mờ mờ ảo ảo, nhưng tôi thề trời thề đất, đó không phải một con gấu hay loài gấu hay thứ gì chứa từ ‘gấu’ cả. Tôi quay lại và bắt đầu chạy, quên béng các quy tắc Norton đã chỉ dẫn. Tiên sư quy tắc, cái quái gì mà tìm độ cao cơ, chỉ chạy nhanh nhất có thể mới giúp tôi toàn mạng phen này.

Sau khoảng thời gian dài đằng đẵng, giọng nói của những người bạn còn sống mới văng vẳng từ xa và khu rừng lại tràn trề sức sống. Tôi sớm thấy nhóm máy bay tập trung quanh đống lửa trại, chạy phăm phăm đến chỗ họ và quay lại xem liệu tôi có bị theo dõi không, nhưng chả có gì hết.

‘Anh có sao không đấy, Sam?’ – Amber ngó tôi nghi ngại.

‘C-Có thứ gì đó ngoài kia’ – Tôi thở hổn hển, chẳng chịu rời mắt khỏi nơi mình vừa bước ra.

Mọi người đều bối rối cho tới khi tôi giải thích cho họ những gì tôi thấy vừa nãy và đêm hôm trước, một vài người trở nên lo lắng rõ rệt. Chúng tôi đồng ý không rời trại và Mitch đề nghị làm rào chắn chướng ngại vật xung quanh, để ngăn chặn động vật nguy hiểm đi lang thang.

Mỗi người phải cầm vật gì đó để phòng thân, nhưng vì Mitch đã lấy cái rìu duy nhất cho mình rồi, nên tất cả cầm một cây giáo tạm thời làm từ gỗ. Không ai tin vào sinh vật tôi mô tả – mẹ nó, tôi cũng mong là vậy lắm – nhưng đều nhất trí rằng thật thiếu an toàn khi đi một mình.

Sau bữa trưa, chúng tôi thu thập thêm củi để đốt lửa và cố gắng chờ thời gian trôi qua bằng cách trò chuyện. Amber là một nữ doanh nhân có chuyến đi như tôi. Cô từng kết hôn, nhưng công việc vẫn là ưu tiên hàng đầu. Linda đang có khoảng thời gian khó khăn nhất khi chứng kiến em gái chết trong vụ tai nạn. Hai chị em họ đang đi nghỉ mát thì mọi chuyện xảy ra. Cô ấy nghĩ mãi về phản ứng của bố mẹ, nhưng Amber cũng xoa dịu Linda nhiều lắm.

Mitch là một vận động viên bị chấn thương đầu gối, vậy nên anh ta đã đến với nhà vật lý trị liệu của mình trong nước. Cậu chàng tự coi mình là người may mắn khi còn sống, huống hồ việc tránh các vết thương nặng hơn. Will làm lập trình viên – tất cả những gì chúng tôi cố moi từ anh ta chỉ có thế – còn Norton là một trợ giảng. Giống như Linda, anh ấy đang tận hưởng kỳ nghỉ.

Trời tối và lạnh khá sớm mặc dù chỉ khoảng 5 giờ chiều, vì vậy chúng tôi quyết định đã đến lúc quay trở lại máy bay. Will khăng khăng ở bên ngoài giữ lửa, vì nó cải thiện đáng kể tỷ lệ được tìm thấy của chúng tôi. Mặc dù áy náy khi để anh ấy ở ngoài đó một mình, tôi biết Will đúng và tôi chắc chắn rằng anh ấy cũng chẳng muốn ở ngoài đó hơn tôi là bao.

Vào 8 giờ tối, Mitch, Norton và tôi ra ngoài để Will được an tâm. Anh ấy đã xây một hàng rào tạm bằng những cành cây to, cứng cáp nhô lên khỏi mặt đất ở nhiều nơi khác nhau.

‘Khi tôi làm xong, chỗ này sẽ đủ tiêu chuẩn để ta lưu lại hết mùa đông’ – Will tự hào nói.

‘Chà, hãy hy vọng là chúng ta không bị kẹt ở đây quá lâu’ – Tôi nhún vai.

Norton đứng lên để đi tiểu.

‘Cậu nghĩ người ta sẽ sớm tìm thấy mình à?’ – Will hỏi.

‘Không nên quá mười ngày’ – Mitch thản nhiên trả lời.

Điều này chẳng làm tinh thần của Will khá hơn chút nào. Norton thì đã xả lũ xong, và đang bận bịu kéo khóa quần.

‘Chắc chắn một điều là’ – Anh ấy phát biểu khi quay lại chỗ chúng tôi – ‘Chúng ta sẽ được một liệu trình cai nghiện công nghệ miễn phí.’

Will chọc đống củi đang cháy dở, trong khi Mitch nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Ngọn lửa bùng lên dữ dội giây lát, chiếu sáng khuôn mặt Norton và khu vực xung quanh. Trong tích tắc, tôi thấy cái gì đó màu đen đầy lông lá phía sau anh ấy, chậm rãi bò bằng cả bốn chân, trước khi nó nhập vào với bóng tối một lần nữa. Thứ này và điều tôi nhìn thấy trong rừng là một. Nó bò bằng cả bốn chân, ngay sau Norton.

Tôi mở miệng, cố gắng hét lên, nhưng không có âm thanh nào phát ra cả. Mọi chuyện xảy ra quá nhanh – biểu cảm vui vẻ của Norton biến thành một sự ngạc nhiên cực độ khi bị giật mạnh về phía sau và tiếng thét khiếp đảm của anh ấy xen lẫn tiếng kéo lê xa dần, như thể bằng cách nào đó anh ấy đã chạy được hàng trăm mét chỉ trong vài giây.

Mọi người khác ngay lập tức trở nên cảnh giác.

‘Norton Norton?’ – Mitch đứng lên – ‘Norton Norton?!’

Giờ tiếng thét của Norton đã biến mất hoàn toàn và âm thanh duy nhất còn lại là tiếng lửa lép bép vui tai quá trái ngang trong hoàn cảnh hiện tại.

‘NORTON’ – Mitch gầm lên, nhưng chỉ có âm vang của chính mình đáp lại lời chàng trai trẻ – ‘Sam, chuyện gì đã xảy ra vậy?’

‘Nó…nó vừa đưa Norton đi’ – Tôi lắp bắp, lời nói vuột ra khỏi miệng thều thào.

‘Cái gì đã đưa anh ấy đi?’ – Mitch chất vấn.

Và rồi một tiếng gào nữa đóng băng đến cả xương tủy tôi. Nghe như một chiếc lốp xe rít lên vang vọng khắp khu rừng và đến tận chỗ chúng tôi.

‘Chết tiệt, chúng ta phải quay vào bên trong, ngay bây giờ!’ – Tôi nhớ mình đã hét lên như thế.

‘Đợi đã, chúng ta phải giúp Norton’ – Mitch nói.

‘Mitch, dùng đầu mà nghĩ đi! Nếu ra ngoài đó bây giờ, ta cũng sẽ chết. Lập tức trở về máy bay!’

Cả ba chúng tôi chạy lại máy bay rồi dồn cả đống hành lý lại để chặn cửa. Hai người phụ nữ bối rối đau khổ, tha thiết hỏi Norton đang ở đâu và tiếng hét vô nhân đạo đó là gì, nhưng chúng tôi không có thời gian để giải thích.

‘Nghe này, chúng ta cần im lặng nhất có thể. – Mitch thì thào – ‘Chúng tôi không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng có một loài vật chết tiệt vô cùng nguy hiểm lởn vởn ngoài kia.’

Mọi người ngồi phịch xuống, thời gian tưởng như hàng giờ trôi qua, tất cả nắm chặt ngọn giáo, ngọn lửa đỏ tắt ngúm từ lâu. Tôi đã bắt đầu buồn ngủ khi có tiếng động phát ra từ bên ngoài máy bay. Tiếng cành cây răng rắc.

‘Shhh’ – Mitch run rẩy cuộn chặt người trên băng ghế với cái rìu ôm chặt trước ngực.

Âm thanh cào xé phát ra từ phía máy bay làm tôi đóng băng tại chỗ. Một lúc sau, nó dừng lại. Tôi nghe thấy tiếng sụt sịt, theo sau là tiếng bước chân trên lá cây, dần dần biến mất. Thu hết can đảm ngẩng đầu lên vừa đủ để nhìn trộm qua cửa sổ, tôi thấy nó chuyển động. Một dáng người cao lớn, lưng gù đang đứng gần các thi thể. Nó cúi xuống kiểm tra họ trước khi tóm lấy một người bằng cánh tay dài ngoằng bất thường và kéo vào bóng tối, giống như điều nó làm với người phụ nữ đêm hôm trước.

Chúng tôi không hề ngủ cho tới khi mặt trời ló rạng đằng đông.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *