Tại sao một số người thông minh, còn số khác thì không (thông minh dựa trên các chất hóa học của não)?

A: Michael J. Lukiman, Cử nhân Khoa học thần kinh, Đại học New York (2017)

Tôi có một câu trả lời chắc nịch dành cho bạn, với tư cách một cử nhân ngành Khoa học thần kinh. Sự thông minh thường gắn với tốc độ xử lý chính xác của não với một công việc cụ thể. Nếu cho một người đàn ông hay một người phụ nữ một triệu năm, anh hoặc cô ấy có thể tìm được cách làm công việc ấy, cũng như một con khỉ với cái máy đánh chữ cũng có thể viết văn Shakespeare. Vì thế mà chúng ta cần tập trung vào tốc độ.

Tốc độ xử lý của não, nếu được đơn giản hóa để so sánh cùng hạng với những máy móc cơ học, thì chính là tốc độ của một thế động tác – action potential (một xung điện) truyền từ nơ-ron này sang nơ-ron khác. Đây là cách mà các nơ-ron giao tiếp với nhau, ví dụ, khi mắt của bạn muốn thông báo với não bạn những gì nó đang chứng kiến, não bạn cũng phải cho bàn tay biết chúng cần làm gì. Quá trình ấy tốn khoảng thời gian nhất định. Như chúng ta đã biết, não của loài người dựa trên lực điện và các chất hóa học, nhưng hình thức giao tiếp chủ yếu giữa hai nơ-ron với nhau thì lại cần những xung điện vừa rồi.

Một điều được công nhận rộng rãi hiện nay đó là bộ phận điều chế tốc độ của những xung điện này chính là các vỏ myelin (một lớp phủ dày cuộn quanh các đoạn thắt ở nơ-ron). Điều này giống như khi dây sạc laptop của bạn có một lớp nhựa hoặc cao su bao phủ để cách ly nó. Nơ-ron thường rất mảnh, nó sẽ được củng cố khi được cách ly khỏi những thứ khác. Điều thực sự xảy ra là dòng điện, khi qua một nơ-ron đã được cách ly, sẽ đi qua nơ-ron đó nhanh hơn (thuật ngữ cho hiện tượng này là “saltatory conduction” – tạm dịch: sự dẫn truyền nhảy cóc, từ “saltatory” dựa trên gốc Latin mang nghĩa “leap” – nhảy cóc trong tiếng Anh). Các nhà khoa học thần kinh thường so sánh hiện tượng này với một đường ống dẫn — nếu bạn có nhiều lớp bảo vệ quanh một đường ống dẫn nước, nước có thể di chuyển quanh ống với tối thiểu số nước bị hao hụt đi.

Sự khác biệt, hay có thể nói là sự phức tạp của nơ-ron là bạn cần phải chừa lại một số diện tích không có phần bảo vệ để phòng trường hợp bạn dùng chúng để gửi đi một thông tin mới tới nơ-ron khác. Theo tôi được biết, những diện tích này là nơi các dòng điện chồng lên nhau hoặc phản hồi với nhau (chúng giống như các viên sỏi rải xuống để băng qua con sông vậy).

Vì thế mà lớp vỏ myelin càng dày và nhiều thì lại càng có lợi cho nơ-ron. Mặc dù thế, phải tồn tại một khoảng diện tích giữa các đoạn. Những khoảng này gọi là Eo Ranvier, một cái tên rất quyến rũ phải không. Nói tóm lại, nhiều myelin hơn thì tốc độ xử lý càng nhanh.

Giờ chúng ta sẽ xét tới cấp độ đơn bào của nơ-ron. Chúng ta không được quên một điều rằng nơ-ron hoạt động trên mạng lưới hàng triệu. Lấy ví dụ bạn cần đi từ cuối thành phố này tới thành phố khác. Bạn chỉ cần đi trên một con đường thẳng và chọn lối tắt để có thể đến đó nhanh nhất. Nhưng nếu như bạn chưa được luyện tập để đi lối tắt ấy nhiều, bạn có thể sẽ lang thang và tốn nhiều thời gian hơn, rẽ sai hướng và lạc đường. Giống như vậy, khi nói tới mạng lưới, tốc độ cũng có thể bị ảnh hưởng lớn bởi sự luyện tập và củng cố của mạng lưới đó. Nhiều luyện tập hơn và nhiều thông tin hơn sẽ dẫn tới nhiều lựa chọn cho lối.

Vậy tốc độ xử lý của não ở từng người khác nhau phải không? Đúng, khác một phần do bẩm sinh và phần lớn là do môi trường.

Ở cấp độ myelin, ta có thể tạo ra những cải thiện nho nhỏ. Vài người cho rằng bạn nên ăn cá, hạt hoặc gì cũng được, để tăng lớp vỏ myelin. Chỉ có cách thực hiện một thí nghiệm khoa học nghiêm ngặt với dám chắc được điều đó.

Nhưng ở cấp độ mạng lưới, chúng ta có thể thấy sự khác nhau với đơn vị thời gian lớn hơn. Khi một đứa trẻ đã luyện làm phép cộng và nhân được cho giải toán trong phạm vi đã học, mạng lưới dùng trong việc giải quyết các bài toán này được củng cố. Chúng ta gần như có thể chắc chắn rằng tốc độ trung bình mà những đứa trẻ này hoàn thành các bài toán sẽ nhanh hơn một đứa trẻ chưa được làm quen với những tình huống vừa rồi.

Nhưng rõ ràng rằng đây chỉ là vấn đề rèn luyện các đường dẫn nơ-ron của bạn, chứ không liên quan gì tới bẩm sinh. Có thể sẽ có một vài sự khác nhau về mặt di truyền trong khả năng tạo ra thêm lớp myelin hoặc có lẽ là trong khoảng thời gian các thông số liên kết (weights, hoặc parameters) thay đổi, chắc chắn rồi; tuy nhiên, chúng ta có thể thấy tốc độ xử lý của não nhanh hay chậm phụ thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể. Một người có thể nghĩ nhanh một câu tiếng Anh nhưng có thể không thể phân biệt được cảm xúc nhanh như thế – nó phụ thuộc vào những gì chúng ta được luyện tập trong thời gian qua và những ký ức có thể nhớ được trong khoảnh khắc đó.

Vì lẽ đó, người ta dĩ nhiên không giống nhau khi nói tới tốc độ xử lý của não. Tuy nhiên, chúng ta có thể xua đi quan niệm trí thông minh là một hằng số bất biến. Thường thường thì tất cả những gì chúng ta cần là luyện tập (thi thoảng là cực nhiều luyện tập) và kết quả có thể làm ta ngạc nhiên.

Một ví dụ: học tiếng Trung trước đây đã luôn là việc khó khăn với tôi. Gần đây, tôi chỉ có ít hơn 2 tuần để học những gì mà người ta sẽ dành 30 tuần trong một năm học (hai cấp độ tiếng Trung). Tôi dành phần lớn thời gian còn thức của mình để luyện tập với những từ tiếng Hán và nhận mặt những điểm khác nhau cực nhỏ giữa những ký tự này. Kết quả là tôi bị kiệt sức, nhưng khả năng nhận mặt ký tự của tôi đã dần phát triển tới một cấp độ mà tôi chưa bao giờ đạt được trước đây. Giờ tôi cực kỳ thích thú nhận ra não của mình có thể tự động nhận ra Hán tự dễ dàng thế nào. Tôi không nghĩ nó là công của tôi đâu, tôi chỉ rất ngạc nhiên vì điều đó thôi. Chúng ta nên cảm ơn những đường dẫn xảy ra trong đầu tôi (đồng thời là bố mẹ, những giáo viên hồi còn nhỏ của tôi vì đã nuôi nấng chúng?) Tôi ước tôi có thể nói ra được cảm giác ấy với người khác: rằng nếu thứ gì đó có vẻ như khó một cách không tưởng, nó sẽ mất dần sự không tưởng ấy sau một khoảng thời gian. Sự thật là, bởi vì trước đây nó từng rất khó khăn, hoàn thành được nó sẽ sung sướng hơn rất nhiều. Giờ đây, chúng ta không cần bằng Khoa học thần kinh để nhận ra điều này, nhưng bởi ta có thể giải thích nó, chúng ta có thể tự tin áp dụng nó với những khía cạnh khác của cuộc đời.

Vì vậy

Một số lưu ý dành cho sự khác biệt về tốc độ:

  1. Tăng myelin và tăng tốc độ xử lý.
  2. Tăng đường dẫn trong việc xử lý công việc bằng cách luyện tập và một lần nữa nhấn mạnh việc tăng tốc độ xử lý.

__

Tôi cố không trả lời bằng một danh sách liệt kê cụt lủn vì tôi đã ở trên Quora đủ lâu để phát điên lên vì chúng. Nếu bạn đã follow tôi đủ lâu, bạn cũng sẽ ủng hộ lý do này.

Liệu khoa học thần kinh có thể thay thế tâm lý học? Tham khảo giải thích ở đây: Michael J. Lukiman’s answer to Do you think neuroscience will replace psychology?

Tham khảo câu trả lời của tôi về động lực, làm thế nào để đạt được trải nghiệm tối đa nhất và ngừng vụng về: Michael J. Lukiman’s answer to What are easy and effective ways to improve will power?

Lấy cảm hứng từ câu trả lời của tôi cho câu hỏi: Michael J. Lukiman’s answer to Is brain speed different in different people, or is it the same?

Chú thích người dịch: weights hay parameters là đơn vị biểu hiện độ lớn liên kết giữa 2 nơ-ron với nhau, hay biểu hiện sức ảnh hưởng của nơ-ron này tới nơ-ron khác. Weights sẽ thay đổi khi thông tin trong mạng lưới thần kinh thay đổi.

Theo: Tran Anh

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *