Trong thời gian từ tháng 6/1801 đến tháng 7/1802 các quan, tướng lĩnh Tây Sơn lần lượt đều bị bắt.
Lê Văn Duyệt bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách ở mặt trận Phú Xuân.
Các em của Quang Toản là: Quang Cương, Quang Tự, Quang Điện và hơn 30 người đàn bà con gái bị đem nộp lấy thưởng, ở Quảng Bình. Nội hầu Lê Văn Lợi, Thiếu úy Văn Tiến Thể, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư bộ Lại Hồ Công Diệu… ra hàng.
Đóng cũi Nguyễn Quang Cương, Tham lĩnh Ngoạn, Tham lĩnh Tuân giải về Bình Định. Còn Nguyễn Quang Tự, Nguyễn Quang Điện, phò mã Nguyễn Văn Trị bị giải về Gia Định, rồi sai giết đi.
Tháng 6/1801, bắt được Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự, ở bảo Trà Khúc (Quảng Ngãi) đem giải về Kinh.
Tháng 11-12/1801, phụ chính Trần Văn Kỷ đã ra hàng, tìm cách liên lạc với vua Cảnh Thịnh, bị giết.
Tháng 12/1801, Phá huỷ mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị lăng trì cắt nát thây. Ra bố cáo: “Bắt được con cái tướng tá của Nguyễn Văn Huệ nhiều không kể xiết…Nay đã phá huỷ mồ của vợ chồng giặc Huệ, bêu đầu phơi xác. Đồ đảng của chúng bắt được cũng đều giết hết”.
Tháng 4/1802, Nguyễn Văn Vân bắt được ba người con của Nguyễn Nhạc là Thanh, Hán và Dũng, đem nộp, sai giết cả.
Tháng 6/1802, bắt được Nguyễn Lân con Nguyễn Nhạc, ở Nghệ An.
Ngày 3/7/1802, thiếu uý Đặng Văn Đằng, đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng ở Nghệ An. Bắt được con Nguyễn Huệ là đốc trấn Quang Bàn và đổng lý Nguyễn Văn Thận ở Thanh Hoá. Tư mã Nguyễn Văn Tứ đem quân trốn đi. Đặng Trần Thường dâng tù bắt được con Nguyễn Huệ là Thất, tham đốc Phạm Văn Điềm, đô đốc Nguyễn Văn Ngũ. Sai đem giết.
Tháng 7/1802, Phó đô thống Tả dinh Võ Văn Doãn và Chánh thống Tiền đồn Lê Đức Định bắt được Thiếu phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An.
Ngày 13/7/1802, Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá (huyện Nông Cống, Thanh Hoá) bắt được tư đồ Võ Văn Dũng, sai đóng xiềng giam lại.
Ngày 20/7/1802 (ngày Canh Thân 21/6/ Nhâm Tuất) vua Gia Long đến thành Thăng Long. Ra lệnh: “Những kẻ có nhận quan chức của giặc ra thú thì được miễn tội, gần thì hạn 3 ngày, xa thì hạn 5 ngày. Nếu quá hạn mà không ra thú, bị người ta bắt được thì làm tội. Những tàn quân của giặc mang theo binh khí trốn về, thì lập tức phải đến cửa quân trao nộp, nếu cất giấu thì xử theo quân Pháp”.
Vua Cảnh Thịnh bỏ chạy cùng với các em là Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu và tư mã Nguyễn Văn Dụng, tư mã Nguyễn Văn Tứ, đô đốc Tú, đến Xương Giang (thuộc Bắc Ninh). Quân đi theo tan vỡ, Quang Thùy thắt cổ tự tử. Đô đốc Tú và vợ tự tử. Tất cả bị đóng cũi đưa về Thăng Long.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), bắt được con Nhạc là Văn Đức, Văn Lương và con cháu, đều đem chém ngang lưng. Bấy giờ dòng giống Tây Sơn không còn sót một người nào nữa.
Hành hình
Tháng 11-12/1802, làm lễ tuyên cáo võ công.
Ngày 30/11/1802, làm lễ tế thiên điạ.
Ngày 1/12/1802, tế hiến phù (dâng những người bắt được) ở Thái Miếu. Đại Nam Thực Lục viết:
“Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ, áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác. (Dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ (bài vị) của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại (sau đổi là Vũ Khổ), năm Minh Mạng thứ 2, đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi. Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cái trong ngoài”.
Trong bài chiếu gửi toàn dân, có nói rõ tên chức của các quan tướng bị giết: “Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng”.
__
Tham khảo và tra cứu nguồn:
– Đại Nam thực lục-Tập 1, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn. NXB Giáo dục, 2002.
– Vua Gia Long và người Pháp, Thụy Khuê. NXB Hồng Đức, 2015.
– Hình minh họa xử tội nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Ghi chú: Giảo là thắt cổ, trảm là chém đầu, lăng trì là xẻo từng miếng thịt, cưu thủ là chém rồi lấy đầu đem bêu, lục thi là băm xác ra. Gia Long cho thêm tội lục thi là băm xác khi xử tử Tây Sơn, và ông đã áp dụng ba loại cực hình sau đây:
Đối với các con của Quang Trung: Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn, xử lăng trì cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi. Còn đồ đảng là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết.
– Lăng trì: Xử các con Quang Trung, nhưng không cắt từng miếng thịt, mà cho voi xé xác.
– Lục thi: Nghiền hài cốt Quang Trung và Hoàng hậu.
– Cưu thủ: Chém bêu đầu các đại tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng,…
Đối với các con của Quang Trung: Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn, xử lăng trì cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi. Còn đồ đảng là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết.
– Lăng trì: Xử các con Quang Trung, nhưng không cắt từng miếng thịt, mà cho voi xé xác.
– Lục thi: Nghiền hài cốt Quang Trung và Hoàng hậu.
– Cưu thủ: Chém bêu đầu các đại tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng,…