MH370 – Điều gì đã thật sự xảy ra với chiếc máy bay bị mất tích của Malaysia? – P6

u/LabratSR (180 points)

Điều gì đã thật sự xảy ra với chiếc máy bay bị mất tích của Malaysia?

Năm năm trước, một chiếc máy bay biến mất trong khu vực Ấn Độ Dương. Các quan chức trên đất liền biết nhiều hơn là những gì mà họ dám công bố.
____________________

Phần 6: Vị cơ trưởng.

Điều này dẫn chúng ta đến một sự việc khác – một vụ không tặc từ nội bộ, không cần sử dụng vũ lực để đột nhập – được thực hiện bởi một phi công hóa điên. Những người lý tính đưa ra phỏng đoán rằng có thể người phi công muốn tự sát và việc giết hại thêm hàng trăm hành khách vô tội là cái giá đi kèm. Câu trả lời là việc này đã thực sự từng xảy ra trước đây. Năm 1997, viên cơ trưởng SilkAir của hãng hàng không Singapore Airline được cho là đã vô hiệu hóa hộp đen của máy bay Boeing 737 và lao thẳng xuống sông với tốc độ kinh hoàng. Năm 1999, chuyến bay 990 của hãng hàng không EgyptAir do viên phụ lái điều khiển cố tình đâm thẳng xuống vùng biển ngoài khơi đảo Long Island dẫn đến cái chết của tất cả mọi người trên máy bay. Năm 2013, chỉ vài tháng sau vụ mất tích của chiếc MH370, cơ trưởng chuyến bay 470 của hãng hàng không LAM Mozambique Airlines đã lái chiếc máy bay phản lực đôi Embraer E190 từ trên trời hướng thẳng xuống đất, giết chết 27 hành khách cùng cả sáu thành viên phi hành đoàn. Gần đây nhất là chuyến bay 9525 của Germanwings đã chủ ý tông thẳng vào dãy núi Alps thuộc phạm vi nước Pháp và gây nên cái chết cho toàn bộ người trên máy bay (gồm 144 hành khách và 6 thành viên phi hành đoàn). Cơ phó Andreas Lubitz đã chực chờ lúc cơ trưởng đi vệ sinh và nhốt anh ta ở ngoài. Lubitz có tiền sử bị bệnh trầm cảm – theo như những cuộc điều tra sau đó – và đã học hỏi từ vụ mất tích của chiếc máy bay MH370 xảy ra trước đó một năm.

Quay lại trường hợp của MH370, thật khó để mà tin rằng viên cơ phó là thủ phạm. Anh còn trẻ với đầy triển vọng, và còn đang dự định kết hôn. Anh không có bất kỳ tiền sử rắc rối, mâu thuẫn hay nợ nần nào. Anh còn chẳng phải một công dân Đức trói buộc cuộc đời mình trong ngành hàng không với ngân sách bèo bọt, lương thấp và thanh thế cũng thấp. Anh là phi công của một chiếc máy bay Boeing 777, tại một đất nước mà phi công của hãng hàng không quốc gia là một nghề nghiệp vô cùng hiển hách.

Chính cơ trưởng Zaharie mới là người làm dấy lên những mối quan ngại. Điều đáng ngờ đầu tiên là việc ông được mô tả trong các bản báo cáo chính thức là một người đàn ông không thể nào chê trách – một viên phi công giỏi và là người đàn ông điềm tĩnh của gia đình, có niềm yêu thích đối với các chuyến bay giả lập. Đây là hình ảnh được gia đình Zaharie vẽ ra, và nó mâu thuẫn với hàng loạt dấu hiệu có vấn đề mà ta có thể dễ dàng đề cập đến.

“Báo cáo của cảnh sát Malaysia giấu nhẹm những gì biết được về vị cơ trưởng, Zaharie. Không ai ngạc nhiên.”

Cảnh sát điều tra các khía cạnh trong cuộc sống Zaharie đáng lẽ nên đào sâu nhiều hơn. Kết luận chính thức từ phía họ đưa ra không thỏa đáng. Người phát ngôn chính thức, gọi Zaharie là “phi công chỉ định”, lên tiếng:

“Viên phi công chỉ định có khả năng xử lý tốt căng thẳng trong quá trình làm việc. Không có tiền sử về các vấn đề tính cách như lãnh đạm, lo âu hay cáu kỉnh ở người đàn ông này. Không có bất thường gì đáng kể trong phong thái sống, mâu thuẫn cá nhân, rắc rối gia đình … Không nhận thấy các biểu hiện hành vi của chứng cô lập xã hội, thay đổi các sở thích hay thói quen. Dựa trên nghiên cứu về mô hình hành vi của viên phi công chỉ định này từ CCTV (ở sân bay) vào ngày chuyến bay xảy ra và cả 3 chuyến bay trước đó, không phát hiện ra sự thay đổi hành vi nào đặc biệt. Trong tất cả các bản ghi CCTV có được, ngoại hình của ông ta tương tự nhau – tất cả đều ăn mặc chỉn chu. Dáng đi, tư thế, biểu cảm và phong thái vẫn như bình thường.”

Điều này dường như chẳng liên quan và thậm chí có phần mâu thuẫn với những gì được biết về Zaharie. Khi nói chuyện với những người quen hoặc biết về ông thì tôi phát hiện ra sự thật rằng, Zaharie là một con người buồn bã và cô đơn. Vợ ông bỏ đi và hiện đang sống ở căn nhà thứ hai của gia đình. Bạn bè ông thừa nhận, thời gian nghỉ ngơi giữa những chuyến bay, ông chỉ ngồi thừ người trong các căn phòng trống và chờ đợi những ngày dài trôi qua. Ông được xem là một người đàn ông lãng mạn. Dẫu vậy, cuộc hôn nhân của ông không mấy hạnh phúc với một vợ và ba con – một đứa trong số đó bị khuyết tật. Và ông có nỗi ám ảnh mãnh liệt với hai cô nàng mẫu ảnh mà ông bắt gặp trên mạng và không phản hồi các bình luận của ông trên Facebook. Một vài trong số đó là những lời mời gọi kín đáo. Ví dụ, trong một bình luận nọ, ông viết rằng cô gái đang choàng áo hờ hững trong một bức ảnh được đăng lên, là cô nàng trông như thể vừa tắm xong vậy. Zaharie dường như khác biệt so với một cuộc đời suôn sẻ được đề cập trước đó. Ông còn giữ liên lạc với lũ trẻ, nhưng bọn chúng cũng đã trưởng thành và ra riêng. Sự cô đơn đi cùng với việc sử dụng mạng xã hội – Zaharie sử dụng mạng xã hội rất nhiều – có vẻ như không hề cải thiện được tình hình. Các điều tra viên về lĩnh vực trí tuệ hàng không nghi ngờ rằng ông đã bị trầm cảm lâm sàng.

Nếu Malaysia là một đất nước mà sự thật được hoan nghênh, thì hồ sơ cảnh sát mô tả về Zaharie là một người đàn ông khỏe mạnh và hạnh phúc hẳn còn vớt vát được chút niềm tin. Nhưng Malaysia thì không phải như thế, và việc thiếu đi các bằng chứng chính thức lại càng củng cố thêm nhận định rằng Zaharie thật sự là một người đàn ông có vấn đề.

Các cuộc thám nghiệm pháp lý trên trình giả lập chuyến bay của Zaharie từ FBI hé lộ rằng ông ta đã thử nghiệm một chuyến bay có nhiều tương đồng với chiếc máy bay MH370 – chuyến bay vòng hướng bắc Indonesia rồi đi một chặng đường dài về hướng nam trước khi cạn nhiên liệu tại Ấn Độ Dương. Các điều tra viên người Malaysia bác bỏ và cho rằng chuyến bay này cũng chỉ như hàng trăm các chuyến bay khác được lưu lại trong trình giả lập. Điều này đúng, vì cơ bản là chuyến bay chưa đi đủ xa. Victor Iannello – kỹ sư, đồng thời là doanh nhân vùng Roanoke bang Virginia và là một trong những thành viên kỳ cựu khác của Nhóm Độc Lập – đã phân tích bao quát về chuyến bay mô phỏng kia và nhấn mạnh về những gì mà đội điều tra Malaysia đã bỏ qua. Trong lịch sử chuyến bay trích xuất từ trình giả lập, chuyến bay tương đồng với hành trình bay của MH370 là chuyến bay duy nhất mà ông ta không bay liên tục – tức là không bắt đầu và thực hiện chuyến bay mô phỏng theo thời gian cho đến điểm đích. Thay vào đó, ông chia chuyến bay thành từng giai đoạn và nhảy đến từng mốc rồi trừ đi phần nhiên liệu tương ứng cho đến khi cạn kiệt. Iannello tin rằng Zaharie chính là người điều khiển chiếc máy bay chuyển hướng. Một chuyến bay thử được thực hiện trên một sản phẩm giả lập của Microsoft có thể không có lợi ích gì về mặt kỹ thuật cho Zaharie, thì Iannello vẫn cho rằng mục đích của chuyến bay mô phỏng này có lẽ là dấu vết để ông ta gửi lời từ biệt đến mọi người. Dựa trên bản lưu của chuyến bay mô phỏng này, Iannello phỏng đoán về Zaharie, “cứ như là ông ta đang tập dượt trước vậy”. Không để lại một lời giải thích, nguyên do cho sự hành động của Zaharie vẫn còn là một bí ẩn. Thế nhưng chuyến bay mô phỏng kia không thể chỉ đơn giản được xem là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Đến Kuala Lumpur, tôi gặp được một trong số những bạn bè lâu năm của Zaharie, một đồng nghiệp là cơ trưởng của một chiếc máy bay 777 mà tôi xin được phép ẩn danh vì lo ngại những hậu quả có thể xảy đến cho ông. Và ông cũng tin rằng Zaharie là thủ phạm, dù đưa ra kết luận đầy khiên cưỡng. Ông mô tả vụ bí ẩn này bắt đầu với nhiều lời diễn giải khác nhau nhưng kết thúc chỉ có một là đúng, hệt như một kim tự tháp đáy rộng nhưng trên đỉnh chỉ có một người duy nhất. Ông bảo, “Điều này chẳng có nghĩa lý gì đâu. Thật khó để có thể nhận định về người đàn ông mà tôi biết. Nhưng đây là một kết luận cần thiết.” Tôi hỏi, Zaharie cần làm như thế nào để giải quyết người đồng nghiệp trong buồng lái, cơ phó Fariq Hamid. Ông đáp, “Có khó gì. Zaharie là người sát hạch. Tất cả những gì ổng cần là bảo ‘Này, kiểm tra cabin đi.’ và anh chàng kia đi ngay thôi.” Tôi lại hỏi về động cơ. Đáp lại là câu trả lời không biết. Ông nói tiếp, “Cuộc hôn nhân của Zaharie tồi tệ lắm. Hồi trước ổng còn ngủ với vài cô tiếp viên nữa kìa. Mà sao chứ? Tụi tôi ai chả thế. Chúng ta đang bay vòng quanh thế giới với mấy cô nàng xinh đẹp phía sau cơ mà. Nhưng rồi vợ ổng phát hiện ra.” Ông đồng ý rằng đây khó có thể là lý do để phát rồ, nhưng trạng thái tinh thần của Zaharie có thể cũng góp phần.

Không xét đến sự bất cập về kỹ thuật của bản báo cáo, liệu việc thiếu đi các thông tin như cuộc sống không dễ chịu của Zaharie cũng như những đặc điểm đặc biệt của chuyến bay mô phỏng kia trong bản báo cáo của cơ quan chức năng đã che đậy cho cái gì đó chăng? Chúng ta không thể kết luận vội lúc này. Dẫu sao thì ta cũng biết được vài điều mà các điều tra viên phát hiện nhưng quyết định không công bố. Và có vẻ những thông tin họ có được mà ta chưa biết thì còn nhiều hơn.

Hãy cùng quay trở lại vụ mất tích của MH370. Ta dễ dàng hình dung cảnh Zaharie thắt dây an toàn và yên vị từ đầu đến cuối trên chiếc ghế ngồi siêu-thoải-mái trong buồng lái – vốn là chốn quen với những máy móc thiết bị quen thuộc, biết rõ rằng mình sẽ chẳng thể quay đầu và không việc gì phải vội. Lúc này ông đã giảm áp máy bay và đưa về nhiệt độ phù hợp từ lâu. Tiếng động cơ âm vang, khung cảnh trừu tượng nên thơ hiện trên màn hình phẳng, ánh đèn công tắc và chốt khóa lấp lóe đầy cẩn trọng. Tiếng không khí lùa qua thì thầm nhỏ nhẹ. Buồng lái là khoang sâu nhất, được cách ly riêng tư và bảo vệ cẩn thận nhất trong các khoang. Đến tầm 7 giờ sáng, ánh dương ló rạng ở hướng đông, bên trái của máy bay. Vài phút sau, chiếc máy bay đâm thẳng xuống và cháy sáng bùng đại dương sâu thẳm bên dưới. Có khi nào Zaharie đã chết khi đang bay? Ông có thể giảm áp máy bay lần nữa và kết liễu đời mình. Điều này còn mơ hồ và khó mà kết luận. Thật vậy, dựa trên việc mô phỏng quá trình cạn kiệt nhiên liệu trên trình giả lập của nhóm điều tra thì nếu như chiếc máy bay này chỉ rơi tự do thì sẽ không chìm hoàn toàn như những gì mà dữ liệu vệ tinh đã xác định – nói cách khác, người ta ngờ rằng máy bay vẫn được điều khiển đến khoảnh khắc cuối cùng, khiến cú đâm của máy bay mạnh mẽ hơn. Hoặc cũng có thể là suy đoán khác, ở đâu đó dọc trên đường vòng cung thứ bảy, chiếc máy bay cạn kiệt nguyên liệu và đâm xuống biển thành đường xoắn ốc với tốc độ vào khoảng 15,000 feet trên phút. Ta tính toán được vận tốc này dựa trên những mảnh vỡ trôi dạt mà Blaine Gibson đã thu thập được, chứng tỏ rằng chiếc máy bay đã vỡ tung từng mảnh ngay khi tiếp nước.
____________________

Phần 7: Sự thật.

Hiện tại các cuộc điều tra chính thức đã kết thúc. Người Úc đã làm mọi việc hết sức có thể. Người Trung thì muốn vượt qua chuyện này và giấu đi mọi tin tức có thể ảnh hưởng đến không khí gia đình. Người Pháp nghỉ ngơi tại quê nhà và kiểm tra lại các dữ liệu vệ tinh. Người Malaysia chỉ cầu mong cho toàn bộ chủ đề này biến mất. Tôi tham gia vào một sự kiện tại thủ phủ Putrajaya mùa thu rồi, và trông thấy Grace Nathan và Gibson đứng trước ống kính cùng với Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Anthony Loke. Vị bộ trưởng này chính thức nhận năm mảnh vỡ vừa được thu thập trong hè. Sự đớn đau đến mức tức giận. Chẳng nói một lời, và ông cũng chẳng trả lời cánh phóng viên. Nathan sục sôi trước thái độ của Bộ trưởng. Sau bữa tối hôm đó, cô khẳng định, rằng chính phủ không nên để mọi thứ trôi đi quá dễ dàng. Cô tiếp tục, “Họ đã không theo đúng cách thức. Họ đã không theo đúng quy trình. Việc này thật kinh khủng. Ta đã có thể làm được nhiều hơn thế. Chỉ vì sự thờ ơ từ phía không quân – cũng như các bên liên quan đã không thực hiện đúng nghĩa vụ – mà giờ ta bị mắc kẹt trong tình thế này. Mỗi người trong số họ đều sai nguyên tắc một lần, và cứ thế mà nhân lên. Mỗi người có trách nhiệm liên đới ngay lúc ấy đã không thực hiện được điều mà họ đáng lẽ phải làm. Khiến cho mức độ thiệt hại trở nên nghiêm trọng. Có thể khi ta xét riêng lẻ từng sai sót thì chẳng thấy đáng gì, nhưng khi nhìn tổng thể, thì mỗi người trong số họ đều góp phần dẫn đến sự thật rằng chiếc máy bay đã mất tích và không được tìm thấy.”

Mỗi người trong số họ đều là nhân viên chính phủ. Nathan từng hi vọng rằng công ty Ocean Infinity, vừa tìm thấy chiếc tàu ngầm Argentine bị mất tích sẽ tham gia vào cuộc tìm kiếm, một lần nữa “không-thấy-không-lấy-tiền” như thường lệ. Công ty này từng đề xuất những khả năng thực hiện ngay tuần đó. Nhưng chính phủ Malaysia buộc phải ký hợp đồng. Xét truyền thống chính trị của quốc gia này, Nathan quan ngại rằng họ sẽ không ký – và kết quả đúng như thế thật.

Nếu như toàn bộ mảnh vỡ được tìm thấy, thì có thể loại bỏ đi những thuyết âm mưu không suy xét gì đến dữ liệu vệ tinh hay thực tế là máy bay đã bay một hành trình phức tạp sau khi quay đầu từ Bắc Kinh và tiếp tục chuyến bay thêm sáu giờ nữa. Không, chiếc máy bay không hề bắt lửa và bốc cháy trên không trong suốt thời gian đó. Không, chiếc máy bay không hề trở thành một “bóng ma” có thể điều hướng hệ thống để tắt đi rồi bật lại. Không, máy bay không hề bị bắn hạ bởi mưu đồ bất chính của các thế lực quốc gia. Và không, chiếc máy bay không hề nằm ở đâu đó trên Thái Bình Dương, hay vẫn còn vẹn nguyên trong một nhà chứa máy bay ngụy trang tại vùng Trung Á. Tất cả những lời giải thích này đều có điểm chung, là chúng mâu thuẫn với những thông tin chính thức từ cuộc điều tra đưa ra.

Bên cạnh đó, tìm thấy toàn bộ mảnh vỡ và hai hộp đen có thể làm sáng tỏ phần nào. Hộp đen ghi âm trong buồng lái tự xóa lịch sử sau mỗi hai giờ, và có vẻ là chỉ lưu giữ lại những âm thanh trong vài giờ cuối cùng trước khi nổ tung, trừ phi người điều khiển vẫn còn sống và có thể tâm trạng thanh minh với dư luận. Hộp đen còn lại, ghi chép dữ liệu chuyến bay, có thể cung cấp các thông tin về hoạt động của máy bay trong suốt hành trình, dù cho không hé lộ gì về lỗi hệ thống vì chẳng lỗi nào có thể lý giải được những điều đã xảy ra. Và đặc biệt, chúng có thể trả lời những câu hỏi liên quan không mấy quan trọng, như là thời gian chính xác khi máy bay giảm áp và duy trì bao lâu, hay hộp vệ tinh bị tắt đi và bật lại như thế nào. Các cư dân mạng hẳn sẽ ám ảnh lắm, nhưng khó mà trông chờ được điều gì.

Những câu trả lời quan trọng nhất có lẽ không nằm dưới đại dương mà là trên đất liền, ở Malysia. Đó nên là trọng tâm mà chúng ta hướng đến. Trừ phi họ cũng bất tài như phía không quân và kiểm soát không lưu, còn lại thì chính quyền Malaysia biết nhiều hơn những gì họ dám tiết lộ. Bí ẩn có thể không khó lường mấy đâu. Nhưng đó mới là lý do mà ta thất vọng. Câu trả lời có lẽ đã nằm gần trong tầm tay, nhưng họ khó hé lời hơn bất cứ hộp đen nào. Nếu Blaine Gibson thật sự muốn phiêu lưu, anh ta sẽ phải dành cả một năm xoay quần bên Kuala Lumpur đây.

Hết.
____________________
Đây là món quà cảm ơn của mình dành tặng cho các bạn đã ủng hộ RDVN suốt thời gian qua. Chúc các bạn năm mới mọi sự tốt lành nhất.
____________________
Link Reddit: https://redd . it/c1mgew
____________________
Dịch bởi RDVN | https://rdvn . page/write

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *