Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1255-1330) là con trai thứ 6 của vua Trần Thái Tông. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông sinh ngày 10 tháng 4 năm Ất Mão (1255). Lúc mới sinh dung mạo khác thường, được vua cha đặt tên là Trần Nhật Duật, phong hiệu cho ông là Chiêu Văn Vương.
Năm 1280, ở đạo Đà Giang, miền núi Tây Bắc, Trịnh Giác Mật tụ họp dân nổi lên chống lại triều đình, nhà Nguyên cũng đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt, đất nước đứng trước trước hiểm họa thù trong giặc ngoài. Để tập trung tâm trí và sức lực đối phó với quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật làm An phủ sứ Đà Giang giải quyết gấp rút sự cố nghiêm trọng này. Dưới cờ hiệu “Trấn thủ Đà Giang”, Trần Nhật Duật làm lễ ra quân lên đường đi Tây Bắc.
Biết được quân triều đình đến, Trịnh Giác Mật định ám hại nên sai người đưa thư dụ Trần Nhật Duật rằng: “Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến gặp, Giác Mật xin ra hàng ngay”. Mặc các tướng can ngăn, vị tướng 27 tuổi một mình một ngựa đến gặp Trịnh Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp đi hầu. Tới trại quân Giác Mật, ông thản nhiên đi giữa rừng gươm giáo và đám lính sắc phục kỳ dị cố ý phô trương để uy hiếp.
Khi ngồi tiếp chuyện, Trần Nhật Duật nói với Giác Mật bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc vùng Đà Giang: “Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai phải, cũng bởi Trịnh thủ lĩnh đối xử với ta quá trọng đãi đây”.
Trịnh Giác Mật và các đầu mục đều kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ của Trần Nhật Duật. Khi mâm rượu được bưng lên, Trịnh Giác Mật đưa tay mời có ý thách thức. Ông không chút ngần ngại cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm gáo rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo như người địa phương. Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên: “Chiêu Văn Vương là anh em với ta”. Trần Nhật Duật đáp lại “Chúng ta xưa nay vẫn là anh em”, rồi sai tiểu đồng mở tráp lấy ra những chiếc vòng bạc trao cho từng đầu mục Đà Giang. Những người cầm đầu đạo Đà Giang hoan hỉ đón lấy tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ từ tay Trần Nhật Duật mà họ vừa nhận làm anh em. Đà Giang đã được quy thuận như thế: Không đổ một giọt máu, không mất một mũi tên.
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng có một lần sứ thần nước Sách Mã Tích (tên cổ của nước Singapore) sang cống, nhưng triều đình không tìm được người phiên dịch. Trần Nhật Duật biết chuyện liền đến gặp sứ thần và nói chuyện trôi chảy bằng thứ ngôn ngữ lạ trong sự thán phục của những người có mặt. Sau chuyện này, có người hỏi ông vì sao biết được tiếng nước Sách Ma Tích, ông trả lời: “Thời vua Thái Tông, sứ nước ấy sang, nhân có giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ”.
Lúc bấy giờ, theo thông lệ, khi sứ phương Bắc sang, triều đình phải sai phiên dịch viên làm trung gian, tể tướng không được là người trực tiếp đối thoại, đề phòng việc xảy ra sai sót gì còn có thể đổ lỗi cho người phiên dịch. Nhưng tể tướng Trần Nhật Duật, khi tiếp sứ nhà Nguyên ông thường nói chuyện trực tiếp với họ, khi sứ về nơi nghỉ thì dắt tay cùng vào, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn vẫn quen biết. Chính tiếng Hán lưu loát và sự am hiểu văn hóa Hán đã khiến sứ nhà Nguyên tưởng Trần Nhật Duật là người Hán di cư sang Đại Việt. Vua Trần Nhân Tông cũng có lần nói với ông rằng “chú Chiêu Văn có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc nên mới giỏi tiếng các nước đó”.
Ngoài tài năng nổi bật về vốn kiến thức ngoại ngữ phong phú, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật còn là nhà quân sự đại tài, nhà ngoại giao lỗi lạc, nhà văn hóa uyên bác trong lịch sử dân tộc. Ông chính là người chỉ huy quân đội nhà Trần đánh tan đội quân của Toa Đô ở cửa Hàm Tử vào cuối tháng 4 năm 1285. Sách Đại việt sử ký toàn thư từng chép rằng “công đánh giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả”.
Nguồn & Ảnh: Dân Việt
