Người cá – Chương 10

Giả thuyết hình tròn

Cố Hạo ngồi trên băng ghế trong hành lang của toà văn phòng Sở Giáo dục, lại thò tay vào túi áo để lấy điếu thuốc. Ông ta nhìn thấy tấm bảng “Cấm hút thuốc” treo trên tường, băn khoăn không biết có nên chui vào nhà vệ sinh để giải tỏa cơn nghiện này hay không. Bấy giờ, cánh cửa văn phòng ban Đức dục mở ra, một người đàn ông trung niên đeo kính thò đầu ra ngoài, vẫy tay về phía ông ta.

“Bác Cố đúng không ạ?”

Cố Hạo vội đáp lại một tiếng, nhanh chóng đi vào phòng làm việc.

Người đàn ông đeo kính tự giới thiệu về bản thân mình trước, họ Từ, phó trưởng ban Đức dục.

“Nghe nhân viên nói, bác đang muốn tìm một em học sinh?”

“Đúng vậy.” Cố Hạo do dự một hồi, “Tôi là một nhân viên đã nghỉ hưu. Chả là mấy hôm trước trời mưa to, tôi bị ngã khi đang trên đường trở về, sau đó được một cô bé học cấp 3 dìu đến tận nhà. Tôi định hỏi xin cô bé họ tên, học sinh trường nào để còn viết một bức thư cảm ơn gửi tới trường, biểu dương tấm gương giúp đỡ người khác của cô bé. Nhưng cô bé ấy không chịu nói gì mà bỏ đi luôn.”

Phó trưởng ban Từ nâng mắt kính: “Vâng, làm việc tốt mà không lưu lại tên, quả là một đứa trẻ ngoan. Ý bác định?”

“Tôi nghĩ là, những đứa trẻ như vậy cần phải được tuyên dương, kêu gọi mọi người học theo tấm gương đạo đức ấy, anh nói có đúng không?”

“Nhưng mà, bác lại không có một chút manh mối nào.” Phó trưởng ban Từ xòe tay ra, “Tôi cũng không thể giúp được bác.”

“Đứa bé ấy mặc áo đồng phục màu xanh dương.” Cố Hạo tự lấy thân mình ra miêu tả, “Kiểu màu pha giữa trắng với xanh, ở mép ngoài quần có một sọc trắng.”

Phó trưởng ban Từ nghĩ một hồi, lôi từ trong ngăn kéo ra một xấp ảnh, chọn ra một tấm rồi đưa cho Cố Hạo.

“Là bộ này phải không?”

Bối cảnh tấm ảnh là một sân khấu, bên trên có treo một tấm biểu ngữ, trên đó viết “Hội thi ca nhạc chào mừng ngày Quốc tế Lao động 1-5 của các trường Trung học, Tiểu học khu Hồng Viên”. Trên sân khấu, các em học sinh được xếp thành ba hàng từ cao đến thấp, đang biểu diễn tiết mục tiểu hợp xướng. Trên người các em đang mặc bộ đồng phục thể thao màu xanh trắng.

“Không sai, chính là nó.”

“Trường Trung học số 4.” Phó trưởng ban Từ cất tấm ảnh lại, “Bác có thể đến trường để hỏi.”

“Chỗ các anh không tra ra được à.”

“Chỗ chúng tôi…… Không hẳn là không tra ra được.” Phó trưởng ban Từ do dự một hồi, “Nếu đến tận trường để tìm không phải sẽ tiện hơn hay sao?”

“Trưởng ban Từ, là thế này.” Ngữ điệu của Cố Hạo tỏ ra thành khẩn, “Tôi ấy à, là một ông già neo đơn, không lập gia đình, cũng không con không cái. Trong lúc tôi cần sự quan tâm nhất, thì đứa bé này đã đem đến cho tôi một sự giúp đỡ rất lớn. Tôi cho rằng, tinh thần lấy việc giúp người làm niềm vui này, một phần đến từ sự giáo dục của nhà trường, một phần cũng nhờ sự quan tâm sâu sát của Sở Giáo dục đối với công tác Đức dục. Lấy danh nghĩa của Sở giáo dục để biểu dương đứa bé, không phải sẽ càng phản ánh rõ hiệu quả trong công tác của Sở, đồng thời thể hiện thành quả to lớn trong việc xây dựng tinh thần văn minh của Chủ nghĩa Xã hội hay sao?”

“Bác Cố, trước khi về hưu bác làm công tác gì vậy?” Phó trưởng ban Từ bị chọc cho cười, “Nói rất bài bản.”

“Tôi chỉ xuất phát từ trái tim để tỏ lòng biết ơn với cô bé, với nhà trường, với Sở giáo dục.” Cố Hạo tỏ vẻ trang trọng, “Một người nhà giáo phải thế nào mới dạy ra được một học trò như vậy, đạo lý này tôi rất hiểu.”

“Được.” Phó trưởng ban Từ đứng dậy, “Bác theo tôi đến phòng hồ sơ.”

****

Những tủ hồ sơ bằng sắt màu xám được xếp thành hàng sát bên tường của phòng hồ sơ. Phó trưởng ban Từ ra hiệu cho Cố Hạo ngồi xuống bàn làm việc, còn mình thì đi đếm dọc theo dãy tủ hồ sơ, miệng lẩm bẩm gì đó.

“Trường Kỹ thuật nghề chế tạo trang bị…… Trung học số 2…… Trung học số 4.” Ông ta mở một trong số những ngăn tủ sắt ra, “Chính sách nhân sự…… Quản lý biên chế…… Bình thẩm chức danh…… Quản lý học tịch…… Năm 1992…… Tìm thấy rồi.”

Ông ta rút ra một cuốn kẹp tài liệu bìa cứng dầy cộp, giở ra: “Không sai — Bác có nhớ diện mạo của cô bé đó không?”

Ngữ khí của Cố Hạo chắc như đinh đóng cột: “Nhớ. Tóc dài, mắt một mí, má bầu.”

“Vậy bác tự tìm nhé.” Phó trưởng ban Từ đưa cuốn kẹp tài liệu cho Cố Hạo, “15 lớp, tổng cộng hơn 600 em học sinh, đủ cho lão tiên sinh đây tha hồ mà lựa.”

Cố Hạo đáp lại một tiếng, nhận lấy cuốn kẹp tài liệu bìa cứng.

Đây là hồ sơ học tịch, được sắp xếp theo từng khối và lớp. Cố Hạo lật giở từng trang, không vội cũng không chậm. Phó trưởng ban Từ mau chóng mất đi sự hứng thú, quay sang tán chuyện với cô nhân viên quản lý trẻ trong phòng hồ sơ.

Cố Hạo bắt đầu tăng tốc, nhảy phốc đến khối 11, đồng thời lược bỏ toàn bộ nam sinh và những ai không mang họ Tô. Mười mấy phút sau, ông tìm thấy cái tên Tô Lâm ở lớp 11A4.

Tim Cố Hạo đập mạnh, ánh mắt lập tức dời về phía tấm ảnh trên hồ sơ học tịch. Sau đó, lông mày ông ta nheo lại.

Quá nửa khuôn mặt cô bé bị dấu giáp lai che mất, trông như nhuốm đầy máu. Trong con dấu hình chữ nhật, hai chữ “Thôi học” hiện ra rõ rệt. Ngược với nó, khuôn mặt cô bé lại trở nên khó phân biệt.

Cố Hạo lại nhìn vào hàng “Địa chỉ gia đình”, thở dài một cái.

Không sai, chính là cô bé.

Cố Hạo đóng cuốn kẹp tài liệu bìa cứng lại. Tiếng “bộp” phát ra khiến cho phó trưởng ban Từ quay đầu nhìn.

“Thế nào bác Cố, bác đã tìm thấy cô bé đó chưa?”

Cố Hạo thay vẻ mặt nghi hoặc: “Chưa, tôi chưa tìm thấy ảnh.”

Phó trưởng ban Từ tỏ ra bất ngờ: “Lẽ nào là trường cấp 2? Học sinh bây giờ lớn nhanh lắm.”

“Anh đã nói như vậy……” Cố Hạo gãi đầu, “Đúng là tôi có chút mơ hồ.”

“Vậy phải làm sao đây?” Phó trưởng ban Từ quay đầu nhìn ra dãy tủ hồ sơ, “Tra thêm trường cấp 2 nhé? Khối lượng công việc lớn lắm đấy.”

Cố Hạo tỏ ra khó xử: “Đúng thế.”

“Bác Cố này, chỗ tôi cũng còn nhiều việc lắm.” Phó trưởng ban Từ nghĩ một hồi, “Để tôi liên hệ với trường Trung học số 4, bọn họ tìm sẽ dễ hơn. Bác xem có được không?”

Cố Hạo gật đầu lia lịa: “Làm phiền tổ chức rồi.”

Phó trưởng ban Từ ghi lại họ tên, số điện thoại và địa chỉ nhà của Cố Hạo, tiễn ông ra khỏi tòa văn phòng của Sở Giáo dục một cách rất khách sáo. Vừa ra khỏi cửa, nụ cười treo trên gương mặt Cố Hạo nãy giờ liền biến mất.

Tại trường Trung học số 4 không tra ra được người, nhưng trong hồ sơ học tịch của Sở Giáo dục lại cho thấy Tô Lâm đã thôi học — Sự việc này ngày càng trở nên khó hiểu.

Cậu con trai út nhà họ Tô bỗng dưng được đi học, chắc hẳn là đã được ghi tên vào hộ khẩu. Lão Tô đã làm điều đó bằng cách nào? Hoặc là, có ai đó đã giúp anh ta?

Cái thân phận hợp pháp từ trên trời rơi xuống này, với việc Tô Lâm mất tích, giữa chúng có mối liên hệ nào hay không?

****

Trong đầu Cố Hạo chất chứa nhiều câu hỏi, khi kịp định thần lại thì đã về tới cổng nhà.

Ông ta đứng trước tòa nhà, nhìn ngó xung quanh. Bây giờ vừa mới qua buổi trưa, trời vẫn còn nắng. Ánh mắt Cố Hạo lần lượt quét qua những tòa dân cư, nhà kho nhỏ, cột điện, chòi nghỉ, con đường phản chiếu ánh nắng. Ông không biết là mình đang tìm kiếm thứ gì, trong lòng chỉ có một tia hy vọng nhỏ nhoi: Có thể chỉ sau một cái liếc mắt, cô bé với sắc mặt trắng bệch, cơ thể gầy yếu ấy sẽ xuất hiện ở một góc nào đó, cúi người, chào ông ta một tiếng ông Cố.

Ông ta sẽ đáp lại thế nào đây? Có thể chỉ “ừ” một tiếng, chắp tay sau lưng rồi quay trở về nhà; Hoặc là bĩu môi, ra hiệu cho cô bé đến cái nhà bếp công cộng ấy mà tìm hai chiếc đĩa đang úp vào nhau.

Thế nhưng, trong tầm nhìn của ông ta, tất cả đều là một khoảng không trống rỗng.

Cố Hạo khẽ thở dài một cái, đứng dậy bước về phía cửa tòa đơn nguyên.

Trong phòng mát mẻ hơn hẳn. Cố Hạo lau mồ hôi trên mặt, uống cốc nước lạnh, châm một điếu thuốc, nằm trên giường ngơ ngác nhìn ra ngoài cửa sổ.

Đằng sau tòa dân cư là một dãy nhà mái bằng xây bằng gạch gỗ, được dùng làm nhà kho cho người dân ở tòa dân cư. Ở giữa căn nhà mái bằng và tòa dân cư là những bồn hoa được đặt cách nhau. Có một vài bồn hoa được người dân trồng cả hành, rau xanh, cải dầu ở trong đó, chăm bón rất cẩn thận. Còn bồn hoa ở dưới cửa sổ phòng Cố Hạo thì không được ai tỉa tót, mọc lên đầy những thứ hoa dại không rõ tên là gì, trông thì có vẻ rậm rạp, nhưng đều không còn sức sống.

Cố Hạo nhìn khóm hoa đang đung đưa trong gió, đột nhiên nghĩ, những bông hoa được cắm vào tay nắm cửa kia có lẽ từ đây mà ra. Ông ta không quá am hiểu về mấy thứ hoa cỏ, cũng chưa từng phân biệt liệu chúng có thuộc cùng một giống hay không, chỉ lờ mờ nhớ lại hình dáng của những màu đỏ, màu vàng, màu trắng, màu xanh được cắm trong bình.

Ông ta nhìn vào chai rượu đặt trên bàn, chỉ sót lại mấy giọt nước khô hạn dưới đáy bình và vài tấm lá héo quắt. Cố Hạo tưởng tượng ra bộ dạng nhẫn nại, khom người xuống để hái hoa của cô bé, bất chợt tỉnh giấc.

Khi tỉnh dậy, trời đã chập choạng tối. Cố Hạo khẽ ngả lưng trên giường một lát, khi ý thức dần tỉnh táo lại, cũng là lúc chiếc bụng đói sôi lên sùng sục.

Ông ta xoay người xuống giường, xoa xoa cái bụng. Mùi áp chảo lọt qua khe cửa, Cố Hạo khịt mũi, cơn đói lại càng gia tăng. Ông ta mở tủ lạnh, lấy ra hai quả trứng, mở cửa bước ra nhà bếp.

Lão Tô đang đứng quay lưng lại với ông ta, xào nấu món thịt và khoai tây lát trong chảo. Cố Hạo chào anh ta một cái, kê hai quả trứng lên miệng bát, đập vỡ, rồi lại xới từ trong nồi cơm điện ra một bát cơm nguội, đặt muôi xuống, vặn bếp. Khi đưa tay ra lấy can dầu ăn, ông ta với hụt. Cố Hạo đang đứng ngớ người ra, thì lão Tô trả lại can dầu cho ông một cách khó xử.

“Dầu nhà dùng hết rồi, bác cho tôi xin ít.”

Cố Hạo nhìn vào sau lưng anh ta, chiếc bát đựng dầu được đậy kín kẽ. Ông ta chợp mắt: “Chuyện nhỏ.”

Chiên dầu, đổ trứng gà, rồi lại cho thêm cơm vào để đảo. Cố Hạo dùng lực để xới đống cơm đã vón thành cục, cứ thấy lồng ngực mình khó thở.

Lúc này, cánh cửa phòng 101 đột nhiên mở tung ra, thằng bé khóc lóc chạy ra ngoài, đến bên lão Tô.

“Ấy, cận thẩn bỏng, cận thẩn bỏng.” Lão Tô nhìn cậu con trai một cách khó hiểu, “Làm sao thế?”

“Mẹ đánh con.” Thằng bé núp sau người lão Tô, “Mau cứu con đi bố.”

Vợ lão Tô cũng đỏ mặt tía tai xông ra khỏi phòng, miệng vẫn còn đang chửi bới. Trông thấy Cố Hạo cũng đang ở trong bếp, cô ta đơ ra một lát, sau đó rối rít gật đầu về phía ông ta, đưa tay ra tóm lấy thằng bé.

“Sao mà lại đánh con?” Lão Tô đặt chiếc xẻng lật xuống, đưa tay ra ngăn cô vợ, “Có gì em từ từ nói không được sao?”

“Từ từ nói với nó có tác dụng chắc?” Vợ lão Tô tức giận, “Về nhà là chơi, bài tập thì đến một chữ cũng không viết! Ngày mai anh định ăn nói thế nào với giáo viên?”

Lão Tô quay về phía thằng bé ở đằng sau: “Tại sao lại không làm bài tập?”

Thằng bé khóc thút thít, trề miệng ra, khuôn mặt nhìn mẹ đầy vẻ ấm ức.

“Tao nói cho mày biết, hôm nay mà không làm xong bài thì đừng hòng ăn cơm, cũng đừng hòng động vào cái món đồ chơi rách của mày nữa!”

Nói đoạn, cô vợ lão Tô trợn mắt nhìn thằng bé một cái, xoay người trở về phòng.

Thằng bé túm lấy tay áo của bố, liên tục vùng vằng: “Bố…… Bố xem mẹ kìa……”

“Không sao, ăn cơm đã.” Lão Tô xoa đầu thằng bé, “Nhưng mà ăn xong là phải làm bài tập đấy.”

“Con không làm.” Thằng bé lại thút thít, “Không giống với chị giảng.”

“Sao mà thế được?” Lão Tô tròn mắt, “Chị con cũng học như vậy mà.”

“Lão Tô.” Cố Hạo ngắt lời, chỉ vào chiếc chảo sắt sau lưng anh ta.

Lão Tô quay đầu lại nhìn, món rau xào đã bị cháy khét dưới đáy chảo. Anh ta vội luống cuống tắt bếp, cầm lấy chiếc xẻng lật ra sức đảo rau, mùi khét ngày càng nồng nặc vẫn bay mịt mù khắp gian bếp.

Lão Tô chửi rủa một tiếng, đổ đống thịt xào khoai tây không còn phân biệt rõ màu sắc kia ra đĩa, đưa cho thằng bé.

“Bưng vào bên trong.”

Sau đó, anh ta dùng xẻng lật để cạo đáy chảo, âm thanh nghe thật chói tai.

Cố Hạo xới cơm rang trứng ra bát, châm thuốc, rồi lại đưa cho lão Tô một điếu: “Ngâm bằng nước trước đã, chứ cạo như vậy hỏng hết chảo.”

Lão Tô nhận thuốc, ném chiếc chảo vào bồn rửa, sáp lại gần Cố Hạo để châm điếu rồi hít một hơi thật sâu.

“Cháu nó được đi học rồi à?”

“Vâng.” Lão Tô đứng dựa vào bếp, nét mặt cau có, “Trước đây chả bao giờ phải bận tâm về chuyện này, giờ thì dức hết cả đầu.”

“Trước đây cô chị dạy thằng em à?”

“Đúng vậy.” Lão Tô gảy tàn thuốc, “Mấy cái thứ nó học thì vợ chồng tôi biết thế đếch nào được, càng nhìn càng rối não.”

Cố Hạo nhìn vào anh ta qua làn khói thuốc bay lượn lờ: “Thế con bé đâu?”

“Đến nhà người thân ở miền Nam.” Lão Tô cúi đầu, “Tôi nhớ là đã kể với bác rồi.”

“Hộ khẩu cũng chuyển theo à?” Cố Hạo tỏ vẻ thờ ơ, “Nếu không thì thằng em sao mà nhập hộ khẩu được.”

“Vâng.” Lão Tô dập tắt đầu thuốc, xem ra có vẻ không muốn nói chuyện tiếp, “Bác Cố, tôi đi ăn cơm đây.”

“Làm cách nào để nhập hộ khẩu vậy?”

Lão Tô ngẩng đầu: “Bác hỏi chuyện đó làm gì?”

“Tôi là ông già neo đơn mà.” Cố Hạo xòe tay ra, “Định sẽ nhận con nuôi từ nhà họ hàng, để sau này già còn có người chăm sóc.”

Lão Tô chớp mắt: “Vậy thì tốt quá.”

“Nhưng tôi không rõ làm sao để nhập hộ khẩu, định hỏi anh để lấy kinh nghiệm.”

“Tôi cũng nhờ người làm giúp thôi.” Lão Tô do dự một hồi, “Để mấy nữa tôi hỏi hộ bác cho.”

“Được.” Cố Hạo chắp tay về phía anh ta, “Không gấp, khi nào anh rảnh thì hỏi. Nếu phải mất tiền thì cứ nói với tôi.”

Lão Tô gật gật đầu, quay người trở về phòng. Cố Hạo ném đầu thuốc đi, bưng bát cơm rang trứng về phòng. Ngồi bên thành giường, mở vô tuyến, ông ta chỉ ăn có một miệng cơm rồi buông thìa xuống.

Mẹ kiếp, quên không bỏ muối rồi.

****

Vương Hiến Giang bước vào phòng họp tạm thời của tổ chuyên án, phát hiện ra trong phòng chỉ có một mình Thái Vĩ. Đồ đệ đang đứng ở trên ghế, cầm cây bút đỏ để viết viết vẽ vẽ lên tấm bản đồ lớn của thành phố.

Vương Hiến Giang lặng lẽ bước lại gần, đứng nhìn một lát mà không nói năng gì, thấy Thái Vĩ đang mô tả lại những khả năng của lộ trình ba nạn nhân di chuyển vào cái hôm mất tích.

“Không phải trên ảnh chiếu có hết rồi hay sao?”

Tiếng nói bất ngờ vọng tới từ đằng sau, Thái Vĩ giật mình suýt chút nữa thì ngã khỏi ghế. Cậu ta lắc lư một hồi mới có thể đứng vững lại được, quay đầu nhìn, lập tức thở phào một cái: “Thầy làm em hết hồn.”

Mặt Vương Hiến Giang không chút biểu cảm: “Đang hỏi em đấy.”

“À, cái của nợ đó xem không tiện.” Thái Vĩ gãi đầu, “Tấm bản đồ này dễ nhìn hơn.”

Vương Hiến Giang “ừm” một tiếng, nhìn ra xung quanh: “Những người khác đâu?”

“Sáng nay đến mấy nguời, lại lần lượt bỏ đi cả rồi.” Thái Vĩ nhảy từ trên ghế xuống, “Chắc là bận việc khác, mọi người đều có những chuyên án riêng mà.”

“Mẹ kiếp!” Vương Hiến Giang quăng mạnh chiếc kẹp tài liệu trên tay xuống bàn làm việc, “Vụ án này không định phá nữa à?”

Thái Vĩ cụp mắt, im lặng không nói gì.

Vương Hiến Giang đột nhiên hiểu ra ý nghĩa của từ “dễ nhìn” mà cậu ta nói. Nhưng mà, dù có dễ nhìn, cậu vẫn có thể chọn cách làm ngơ. Hơn nữa, về tình về lý đều không thể khiển trách được những người đồng nghiệp thiếu tập trung kia — So với việc lãng phí thời gian vào một vụ án không biết bắt đầu từ đâu, chi bằng đi phá những chuyên án có cơ sở, nhiều manh mối còn hơn.

Anh ta đứng tại chỗ một lúc, xua xua tay: “Hai chúng ta cũng vẫn lo được, đi thôi.”

Thái Vĩ chớp mắt: “Đi đâu cơ ạ?”

“Điều tra.” Vương Hiến Giang cầm lại chiếc kẹp tài liệu lên, “Hôm nay sẽ đi tìm hiểu về các mối quan hệ xã hội của nạn nhân, bắt đầu từ nạn nhân thứ nhất…… Tên là gì ấy nhỉ?”

“Đỗ Viên”

“Ừm, bắt đầu từ cô ta trước.”

Nói xong, Vương Hiến Giang xoay người tiến về phía cửa. Đi được vài bước, anh ta nhận ra Thái Vĩ không theo mình, liền ngoái đầu lại nhìn tên đồ đệ.

“Em đang nghĩ gì thế?”

“Sư phụ,” Bộ mặt Thái Vĩ tỏ ra khó xử, “Em nghĩ là……”

“Có gì thì nói!”

“Việc điều tra từng người một này không có quá nhiều tác dụng.”

Vương Hiến Giang nhìn cậu ta độ vài giây: “Tại sao?”

“Những nạn nhân này không có điểm chung trong các mối quan hệ xã hội.” Thái Vĩ lấy dũng khí, “Dù cho có làm rõ được các mối quan hệ xã hội của ba nạn nhân, thì khả năng tìm ra điểm giao nhau là rất nhỏ……”

“Vậy em bảo phải làm sao?” Vương Hiến Giang trợn mắt hét lớn, “Chúng ta cứ đứng đây mà đợi à?”

Anh ta nhấc chân sút đổ chiếc ghế trước mặt: “Đứng đây họp thì có thể phá được án hay sao?”

Thái Vĩ bắt đầu hoảng: “Thầy đừng nóng, chỉ là em nghĩ…… Liệu chúng ta có thể thay hướng tư duy được không?”

Đứng trước tấm bản đồ khổng lồ kia, cơ thể cao to của Thái Vĩ cũng tỏ ra thật nhỏ bé. Ánh mắt của Vương Hiến Giang lướt qua vai cậu ta, đổ về phía những đường cong màu đỏ.

Đột nhiên, anh ta cúi người để dựng chiếc ghế, ngồi phịch xuống.

“Được, em nói đi.”

Thái Vĩ xoa đầu, nhất thời không biết nói gì. Vương Hiến Giang lại nổi nóng: “Có gì thì mau nói! Còn đứng trơ ra đó làm gì?”

“Đâu có, đâu có.” Mặt Thái Vĩ đỏ bừng, “Vụ án này không giống với những vụ án mà chúng ta đã từng phá trước đây. Ngoại trừ việc xác minh được danh tính của ba nạn nhân thì không có manh mối, không có nhân chứng, đến ngay cả hiện trường gây án chúng ta cũng chẳng rõ, chỉ biết rằng thi thể đã bị ném xuống đường cống ngầm. Cho nên, những biện pháp cũ trước đây có lẽ sẽ không còn tác dụng.”

Vương Hiến Giang nhìn chằm chằm vào cậu ấy: “Em nói tiếp đi.”

“Hôm qua em đã đi đến trường Đại học J, ở đó có một thầy giáo bộ môn Tâm lý học tội phạm, tên là Kiều Doãn Bình.”

“Thầy biết người này.” Vương Hiến Giang gật gật đầu, lôi một điếu thuốc ra châm, “Ông ấy trước đây đã từng giúp chúng ta phân tích tâm lý tội phạm.”

“Đúng thế. Người này quả thực rất lợi hại.” Ánh mắt Thái Vĩ sáng lên, “Dựa trên tình hình của vụ án lần này, ông ấy đã đề xuất một phương án mới, gọi là Phác họa địa điểm phạm tội.”

“Phác họa địa điểm……” Vương Hiến Giang cau mày, “Phạm tội?”

“Không sai. Nghe nói là phương pháp mà người Mỹ đã nghĩ ra.” Thái Vĩ làm ra vẻ suy tư, lôi từ trong túi áo ra cuốn sổ ghi chép, “Em sẽ giới thiệu lại với thầy những gì mà mình vừa học được.”

Cậu ta bước đến phía trước tấm bản đồ: “Sư phụ, bất luận chúng ta phá vụ án nào, mục đích cuối cùng vẫn là tìm ra kẻ tình nghi, có đúng không?”

Vương Hiến Giang làm mặt lạnh lùng: “Hỏi thừa.”

“Hiện tại chúng ta đều đã rõ một điểm, nghi phạm chắc chắn đang sống ở thành phố này.” Thái Vĩ chỉ tay vào tấm bản đồ ở đằng sau, “Nói cách khác, hắn đang nằm trong phạm vi của tấm bản đồ này.”

“Nói vào trọng tâm đi!”

“Theo những gì em biết, tác dụng của việc phác họa địa điểm phạm tội chính là để tìm người. Nói thế nào nhỉ?” Thái Vĩ lật giở cuốn sổ ghi chép, “Phát hiện ra không gian sinh hoạt cá nhân và quy luật hành vi của tên tội phạm, chỉ ra vị trí mà hắn có thể đang ở nhất.”

“Cụ thể?”

“Trước hết, em sẽ nói cho thầy nghe về một số tiền đề cơ sở.” Thái Vĩ cầm lấy cuốn sổ, đọc đâu ra đấy, “Đầu tiên, đa số tên tội phạm sẽ không chủ động lựa chọn địa điểm gây án, thế nhưng, sự lựa chọn tưởng chừng như ngẫu nhiên này luôn đi kèm với cảm nhận không gian của tên tội phạm. Chẳng hạn, tên tội phạm sẽ chọn những nơi mà hắn cảm thấy an toàn, có thể khống chế được tình huống. Ví dụ như những khu vực gần với nơi ở và nơi làm việc của hắn cùng những tuyến đường qua lại, hoặc những khu vực mà bản thân hắn quen thuộc.”

Vương Hiến Giang xoa cằm: “Nói có lý.”

“Thầy cũng nghĩ thế đúng không?” Thái Vĩ như được cổ vũ tinh thần, giọng nói cao dần lên, “Thứ hai, nếu như là án mạng liên hoàn, thì vụ án đầu tiên thường xảy ra ở địa điểm cư trú, làm việc của tên tội phạm. Hơn nữa, khi mới phạm tội, hắn nhất định sẽ bị hoang mang, tư duy phản điều tra không quá mạnh, nên sẽ để lại tương đối nhiều manh mối và vật chứng. Cùng với việc hắn tiếp tục gây án, thủ pháp sẽ càng ngày càng điêu luyện, sự tự tin sẽ càng ngày càng nâng cao, hắn sẽ dám thử sức phạm tội ở những địa điểm mới lạ hơn.”

Vương Hiến Giang lại châm thêm một điếu thuốc: “Đến nơi xa hơn để gây án?”

“Mở rộng phạm vi khu vực phạm tội. Không sai.” Thái Vĩ có chút đắc ý mà quên mất hình tượng của mình, nhìn thấy biểu cảm nghiêm túc của thầy, vội tem tém lại, “Nhà tâm lý học tội phạm của Mỹ tên là Canter đã đề xuất một ‘Giả thuyết hình tròn’. Ông ta đã nối hai địa điểm gây án xa nhất trong cùng chuỗi các vụ án liên hoàn lại thành một đường thẳng, lấy đường thẳng đó làm đường kính, là có thể vẽ ra một hình tròn bao gồm tất cả những địa điểm gây án.”

Cậu ta cố ý dừng lại để khiến người nghe phải hồi hộp. Vương Hiến Giang nhìn cậu ta nhưng không nói gì, khiến Thái Vĩ chỉ còn biết ngượng ngùng nói tiếp: “Tên tội phạm sẽ ở trong vòng tròn này, hơn nữa rất có thể hắn ở gần với khu vực tâm đường tròn.”

Vương Hiến Giang nhíu mày: “Tại sao?”

“Tên tội phạm lần đầu gây án, khả năng chọn nơi quá gần nhà để ra tay là rất thấp, nếu không rất dễ bị bại lộ. Cho nên, khoảng cách từ nơi ở hoặc nơi làm việc của hắn đến địa điểm gây án đầu tiên có thể coi là khoảng cách thích hợp. Khi hắn tiến hành lần phạm tội thứ hai, địa điểm gây án đầu tiên đã không còn đủ an toàn nữa, nên hắn sẽ……”

Vương Hiến Giang tự nói một mình: “Hắn sẽ chọn một phương hướng khác, nhưng đồng thời vẫn giữ nguyên khoảng cách thích hợp.”

Thái Vĩ búng tay một cái: “Khoảng cách bằng nhau, phương hướng khác nhau, đây không phải là một hình tròn hay sao? Thầy Kiều còn nhắc đến cái gì mà ‘Khu hoãn xung’……”

“Em nói mấy thứ này để làm quái gì?” Vương Hiến Giang đột nhiên ngắt lời cậu ấy, “Có giúp được gì cho chúng ta không?”

Thái Vĩ ngớ người: “Em…… Không phải ban nãy thầy cũng……”

“Tiền đề của việc phân tích phác họa địa điểm phạm tội là phải nắm rõ được địa điểm gây án.” Vương Hiến Giang không hề khách khí, “Chúng ta chỉ biết địa điểm vứt xác là dưới đường cống ngầm. Thậm chí đến việc tên bệnh hoạn kia tiếp xúc được với các nạn nhân ra sao, khống chế nạn nhân ở chỗ nào, cưỡng bức nạn nhân ở đâu, rồi giết người tại địa điểm nào — Chúng ta đều không biết.”

“Thầy đừng sốt ruột.” Thái Vĩ chỉ tay vào tấm bản đồ lớn, “Không phải em đang phân tích đây hay sao?”

Vương Hiến Giang trợn mắt: “Phân tích?”

“Vâng.” Thái Vĩ giơ ngón tay chỉ vào đầu, “Hiện tại, chúng ta về cơ bản đã nắm được địa điểm sinh hoạt và công tác của ba nạn nhân, thói quen làm việc và nghỉ ngơi hàng ngày, vị trí xuất phát vào hôm bị mất tích…… Ví dụ như cái cô Tôn Tuệ, đường Huệ Dân, đại lộ Phong Thu, đường Tiểu Nam Nhất — Cô ấy đã xảy ra chuyện ở trên ba cung đường này.”

“Rồi sao?”

“Chúng ta có thể thông qua khám sát thực địa những tuyến đường này, từ đó phân tích ra địa điểm gây án có khả năng nhất.”

“Cái đó em gọi là phân tích à? Đó là đoán!”

“Không thì sao?” Thái Vĩ xòe hai tay ra, “Chúng ta vẫn còn cách nào khác tốt hơn ư?”

Vương Hiến Giang suy nghĩ giây lát, vuốt mặt, thở dài một cái.

“Đi thôi.” Anh ta đứng dậy, “Lượn quanh mấy chỗ đó xem sao.”

Thái Vĩ lập tức thay bằng biểu cảm khác: “Sư phụ, đến lúc đó vẫn phải nhờ vào kinh nghiệm phong phú của thầy.”

Bản mặt Vương Hiến Giang vẫn hầm hừ: “Lượn đi!”

Gần với Sở cảnh sát thành phố nhất là đường Huệ Dân. Vương Hiến Giang và Thái Vĩ thương lượng với nhau, quyết định sẽ phân tích địa điểm mất tích của Tôn Tuệ đầu tiên.

Xuất phát điểm: Trường mầm non số 1 của thành phố. Kết thúc điểm: Tòa số 4, số 22 đường Tiểu Nam Nhất, tiểu khu Bắc Quan.

****

Vương Hiến Giang ngồi ở ghế phụ ô tô, nhìn về trước cổng trường mầm non số 1, rồi lại nhìn ra con đường Huệ Dân ở cách đó mấy chục mét: “Bình thường cô ta về nhà kiểu gì?”

“Đồng nghiệp của Tôn Tuệ nói, phương tiện giao thông hàng ngày của cô ấy là chiếc xe đạp, đa số là đi một mình. Hôm xảy ra vụ án, cô ấy vẫn đi làm bình thường. Khoảng 5 rưỡi chiều thì rời khỏi trường mầm non.” Thái Vĩ chỉ tay về phía ngã tư đằng trước, “Tuyến đường thường ngày là rẽ trái ở đằng kia, tiến vào đường Huệ Dân.”

“Ra đó xem sao.” Vương Hiến Giang ra lệnh, “Đi chậm, bám sát lề đường.”

Chiếc xe Jeep Bắc Kinh chạy từ từ trên đường Huệ Dân. Thái Vĩ cầm lái, Vương Hiến Giang thì không rời mắt khỏi ven đường, ánh mắt lần lượt quét qua những bức tường, sạp báo, quầy hoa quả, tòa dân cư. Thỉnh thoảng, anh ta lại bắt Thái Vĩ dừng xe, đối chiếu hướng đi của một con ngõ nhỏ trên tấm bản đồ, sau khi loại trừ khả năng đi vào đó của Tôn Tuệ thì tiếp tục cho xe chạy về đằng trước.

Mười mấy phút sau, chiếc xe Jeep đi đến chỗ giao nhau giữa đường Huệ Dân và đại lộ Phong Thu. Đây là một trong những tuyến đường chính của thành phố, mặt đường rộng rãi, người và xe đi lại nườm nượp.

“Sư phụ, Tôn Tuệ đã biến mất trên đường đi làm về.” Thái Vĩ cho xe đỗ vào lề đường, “Thời gian vào khoảng 5 rưỡi đến 6 giờ, giờ cao điểm, đúng lúc con đường đang nhộn nhịp, chắc đây không thể là địa điểm gây án được.”

“Khả năng bắt cóc là không cao.” Vương Hiến Giang xoa cằm, “Nếu như tự nguyện đi theo đối phương thì sao?”

“Thế thì có chút khó hiểu.” Thái Vĩ nghĩ ngợi một hồi, “Trước đó chúng ta đã phân tích qua, tên bệnh hoạn đó hẳn là một kẻ có thu nhập thấp, từ cách ăn mặc đến lời ăn tiếng nói chắc chẳng ra gì — Tôn Tuệ sẽ đi theo hắn mà không một chút đề phòng ư?”

“Không chỉ cô ấy, ở cả hai nạn nhân còn lại đều tồn tại vấn đề này.” Vương Hiến Giang dường như đang tự nói một mình, “Hung thủ làm sao để tiếp cận được với nạn nhân đây?”

Thái Vĩ không nói gì, kiên nhẫn chờ đợi anh ta đưa ra chỉ thị tiếp theo. Mãi lâu sau, Vương Hiến Giang mới xua tay: “Cứ dựa theo lối tư duy nạn nhân bị bắt cóc trước đã, đi tìm những nơi vắng vẻ.”

Thái Vĩ đáp lại một tiếng, nổ máy con xe Jeep, phóng dọc theo đại lộ Phong Thu, rồi lại rẽ vào đường Tiểu Nam Nhất. Vương Hiến Giang chỉ liếc mắt một cái là biết không cần thiết phải dò xét từ từ — Bên đường toàn là những bức tường cao ngút, chỉ có hai đường nhánh rẽ ra, còn phía không xa chính là nhà của Tôn Tuệ.

Chiếc xe Jeep nhanh chóng cập bến cuối cùng: Số 22 đường Tiểu Nam Nhất, tiểu khu Bắc Quan. Nơi đây là nhà ở cho công nhân của nhà máy thí nghiệm vật liệu, cũng là nơi ở của bố Tôn Tuệ được nhà máy cấp cho khi ông còn sống.

Nhà ở cho công nhân xây theo kiểu khép kín, có tường bao quanh. Sau khi ra khỏi đường Tiểu Nam Nhất, vẫn phải đi thêm 1.2km đường bộ nữa mới đến được cổng phụ nằm bên trái nhà ở cho công nhân. Bên phải con đường, là một vùng đất trống tạm thời được quây lại bằng tôn.

Vương Hiến Giang chỉ tay về phía dãy tôn màu xanh đằng kia: “Đây là chỗ nào?”

Thái Vĩ nhìn vào tấm bản đồ: “Nơi này vốn là một xưởng chế tạo máy biến áp, xem ra đã bị tháo dỡ di dời, hình như là để xây nhà ở thương mại.”

Vương Hiến Giang nghĩ một hồi: “Xuống xe.”

Hai người men theo dãy tôn màu xanh dương để tiến về phía trước vài chục mét, nhìn thấy một tấm tôn bị tháo ra, khe hở đủ để lọt vừa một người. Vương Hiến Giang chui vào bên trong, nhìn phần đất trống mọc đầy cỏ dại và vài bức tường thấp còn sót lại — Khung cảnh trông thật thê lương, mấy người lụm ve chai vẫn đang lục tìm những thứ có thể bán đi lấy tiền.

Vương Hiến Giang chui ra ngoài, lại nhìn sang bên trái tường bao, xoay người về phía Thái Vĩ.

Thái Vĩ hiểu ý, mở tấm bản đồ ra, cẩn thận quan sát một lượt rồi chỉ về đằng trước: “Nhà máy thí nghiệm vật liệu nằm ở hướng Tây, cổng chính nhà ở cho công nhân cũng ở hướng Tây. Công nhân sau khi tan ca, đa số sẽ vào từ cổng chính, con đường này có lẽ là sẽ ít người qua lại.”

Vương Hiến Giang gật đầu: “Vậy nên, nơi đây khá phù hợp với điều kiện gây án.”

Thái Vĩ cười đau khổ: “Tôn Tuệ chỉ còn cách nhà mình chưa đến 500m.”

Cậu ta lôi chiếc bút đỏ ra, dùng miệng cắn nắp bút, vẽ một vòng tròn đỏ trên tấm bản đồ.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *