1- Chính hắn cũng không hiểu nguyên nhân nào đã làm cho hắn có phép màu. Hắn trở thành một hiện tượng lạ đời nhất của nghệ thuật hội hoạ. Tranh của hắn vẽ ra, bất cứ là tranh nào, người xem tranh lẫn hắn điều ngửi được mùi từ trong tranh. Mùi tranh, không phải mùi của màu của mực, mà là của ý nghĩa cây cảnh, của nhân vật xuất hiện trong tranh hắn.
Từ bức “Ông lão bán kẹo kéo”, mùi đường và đậu phộng bay ra thơm lựng. Từ bức “Bến cảng chiều đông”, những người phu bốc vác trần trùng trục, nhễ nhại mồ hôi khuân vác những bao phân bón giữa trời âm u giá lạnh, người thưởng ngoạn có thể ngửi được mùi phân u -rê hăng hắc, mùi mồ hôi, mùi gió biển, và cả rác nhập khẩu còn chất đống trên tàu. Từ bức “Kiều”, mùi son phấn thoang thoảng toả ra, cùng mùi bạc mới thơm phức mà người kỹ nữ ưu sầu rưng rưng nước mắt cầm trên tay sau một cuộc trao đổi với khách làng chơi. Hắn vẽ gì cũng bay mùi đặc trưng của thứ ấy. Thật là quái dị. Và chính nhờ vào sự quái dị này mà hắn bán được tranh. Tranh được mua ào ào. Hắn hăng lên trước thành công vượt quá mơ ước, nên cả ngày cứ cầm cọ đứng trước giá vẽ mà múa may. Tiền vào túi, vào nhà hắn như lá mít rụng ngoài sân, là bàng rơi bên bờ biển. Hắn đổi đời từ dạo ấy.
2- Hắn tậu ngay một ngôi nhà tráng lệ ngay trung tâm thành phố. Vợ con được rước về , bỏ ngôi nhà từ đường ở miệt ngoại ô, để hưởng những tháng ngày sung sướng đầy đủ tiện nghi vật chất hiện đại. Hắn bị cuốn vào dòng chảy lợi danh với tinh thần phấn chấn.hắn tự nguyện bị cuốn, vừa hăm hở tươi cười, vừa tung hoành tay cọ, mắt nhìn tới đâu là nơi ấy in ra cho hắn những xấp bạc giấy mới còn thơm mùi mực. Tranh của hắn bán không đủ cho khách mộ điệu, dù hắn đã vùi đầu vào công việc hái ra tiền suốt mười tám giờ đồng hồ mỗi ngày. Cho đến khi mọi thứ trong nhà đã được sắm sửa thừa mứa, tiền vàng đầy cứng trong tủ rương, trong ngân hàng, hắn mới yên tâm giảm tốc độ sáng tác. Hắn bắt đầu làm eo với khách hàng. Bắt đầu hưởng thụ cuộc sống, ít làm nhiều chơi. Tranh của hắn vì vậy lại tăng giá vun vụt, vun vút. Mỗi bức tranh hiếm hoi của hắn bây giờ có giá trị bằng mười bức trước kia. Vậy mà hắn cứ nhởn nhơ, thong thả ngao du vào cái thế giới ăn chơi phù phiếm xa hoa mà trước kia hắn chưa dám mơ đến.
3- Hắn đắm chìm giữa dòng khoái lạc mà hắn cho là thơ mộng, là hạnh phúc, với cách vung tiền quá trớn của một kẻ đang đắc thắng. Hắn thay người tình như thay đổi áo quần. Chỉ cần vẽ một bức chân dung tặng không cho mỹ nhân cũng đủ nhiếp hồn người đẹp. Người đẹp ngửi thấy cái mùi đặc trưng của thân thể mình từ tranh, kính phục và hiến dâng. Có hàng tá người đẹp xếp hàng chờ hắn mở lời trăng gió giao duyên chỉ vì mê ngọn cọ thần sầu quỷ khốc, mê bút pháp vô tiền khoáng hậu của hắn. Người ta kính sợ, nể nang hắn như trước mặt họ là một tay phù thuỷ có pháp thuật cao cường lão luyện, chứ không phải là một hoạ sĩ chân chính hào hoa. Càng kính sợ hắn chừng nào, tranh của hắn vẽ ra càng đắt và hiếm. Thế giới truỵ lạc đầy màu sắc đã cuốn hút, khiến hắn mê đắm, tuyệt nhiên không nghĩ đến chuyện rời xa. Hắn càng mê đắm khoái lạc, càng vẽ điêu luyện, và không sợ thiếu thốn tiền bạc bao giờ. Hắn vẽ. Chơi. Vẽ. Chơi. Vẽ đủ thứ. Vẽ từ cô gái bán hoa đứng đường gọi khách, mong tìm ít đồng ăn đỡ đói, cho đến vẽ nàng con gái cưng của một ông lớn đang đú đởn se sua, làm điệu bộ cho ra trưởng giả, nhai nhóc nhách kẹo chewinggum như bà già nhai trầu. Cứ thế, vầng hào quang hỗn hợp màu sắc toả sáng sau lưng hắn một cách quái dị. Hắn tự biết mình có giá, mình quan trọng, mình luôn là người của đám đông, là cây đinh của nghệ thuật hội hoạ tỉnh nhà, là cái rốn của làng vẽ cả nước. Hắn đang muốn vươn xa, vượt biên giới, để đem cái pháp thuật nhiệm mầu của mình khuynh loát thiên hạ. Mộng của hắn ngày càng lớn lên, sình trướng lên, sặc mùi danh lợi, bốc mùi đô-la, mùi bia lon rượu ngoại, mùi đàn bà con gái…
3– Đêm ấy, hắn có mặt ở một khách sạn thuộc hạng sang nhất thành phố. Cửa phòng đã đóng lại. Trong phòng chỉ có hắn và một cô gái, cô gái mới chỉ tuổi trăng tròn, ngây thơ, bẽn lẽn, phập phồng trước hắn một kẻ già dặn kinh nghiệm, sành sỏi ăn chơi. Hắn chuẩn bị phá trinh cô gái ngay thơ kia theo giá cả đã thoả thuận. Hắn mở túi xách, luôn kè kè bên mình, lấy ra những dụng cụ thường thấy ở một hoạ sĩ, bày ra giường, đem một tấm toan khổ lớn, căng ra đóng bốn đinh bốn góc cho dính vào tường. Hắn pha một màu, loay hoay rất lâu với mớ đồ lỉnh kỉnh, không hề nói một lời, cũng chẳng buồn nhìn về phía cô gái kia. Xong xuôi, hắn tắt đèn nê-ông, bật ngọn đèn ngủ đầu giường, rồi chậm rãi trút bỏ quần áo trên mình. Hắn bước lại đứng trước cô gái, ném đôi mắt đau đáu nhìn ngắm cô gái như con mèo đang ngắm nghía con chuột bạch hiền lành. Cô gái ngồi bất động từ nãy giờ trên giường, ngước mặt, nhướng mắt lên nhìn thẳng vào mặt người đàn ông tồng ngồng trước mặt mình.
Ôi … đôi mắt bồ câu đen lay láy, với lệ lưng tròng của cô gái đang rực sáng lên không chút sợ hãi, cũng chẳng van lơn, hay hối hận. Hắn hơi lạnh mình. Nhưng rồi con quỷ nhục dục trong hắn đã vùng dậy, vùng vẫy mạnh bạo. Hắn chồm tới.
Mười ngón tay của hắn chẳng hiểu vì sao, chính hắn cũng chẳng hiểu vì sao, lần này lại cóng róng, lại run rẩy khi mày mò tìm những hạt nút để cởi áo của món hàng trinh trắng mà hắn đã trả tiền trước sòng phẳng và hậu hĩnh. Hắn mỗi lúc càng luýnh quýnh với những hạt nút nhỏ nhoi đang là những ổ khoá bảo vệ cánh cửa một thế giới mới lạ bên trong. Mở hoài chẳng được, hắn chửi hẳn lên:
“Mẹ kiếp!”
Cô gái thở dài, hất tay hắn ra, rồi bình thản mở từng hạt nút trên áo của mình. Hắn đứng chết lặng, trố mắt nhìn. Cô gái cởi bỏ hết đến mảnh vải cuối cùng trên người, rồi điềm nhiên nằm dài xuống nệm. Hắn còn trong trạng thái bàng hoàng, chợt nghe giọng cô gái cất lên:
“Anh là hoạ sĩ vẽ tranh có mùi?”.
Hắn giật mình, tỉnh hồn gật đầu. Cô gái lại hỏi:
“Anh không vẽ tặng em một bức chân dung hay sao?”
Hắn ngần ngừ, nói:
“Vẽ chớ. Nhưng khi đã làm xong cái chuyện ấy.”
Cô gái nhoẻn miệng cười:
“Anh nên vẽ em trước khi em trở thành một người đàn bà!”
Hắn kinh ngạc:
“Sao vậy?”
Cô gái ngồi dậy, nói chắc rõ từng tiếng:
“Vẽ em bây giờ, bức tranh của anh sẽ chẳng có mùi gì hết. Tuyệt nhiên không có một mùi nào!”
Hắn ngẩn ngơ, nhíu mày, trầm ngâm. Rồi hắn gục gặc, nói:
“Em nói có lý. Vẽ tranh bay mùi đàn bà thì anh đã vẽ hàng nghìn bức rồi. Vẽ tranh bay mùi trinh nữ thì chưa.”
Cô gái lắc đầu:
“Trinh nữ không có mùi. Không có mùi gì thì gọi là mùi trinh nữ.”
Hắn nhăn mặt, gật gù:
“Có lẽ vậy. Nhưng phải thử xem, có đúng là không có mùi trinh nữ hay không?”
Cô gái cười khẩy:
“Tranh sẽ không có mùi gì hết!”
“Để thử đã!”
Hắn nạt. Rồi hắn dợm bước lại tấm toan căng trên tường. Chợt nghe tiếng cô gái vang lên từ phía sau:
“Tại sao anh không tự hoạ chân dung của chính mình nhỉ?”
Hắn giật nẩy mình như vừa như vừa bị điện giật, quay phắt lại, nhướng mắt ngó cô gái với vẻ khiếp đảm, nghe tim mình đập thom thóp trong lồng ngực. Mồ hôi tươm ra khắp mình mẩy trần truồng của hắn. Hắn lạc giọng, hỏi:
“Cô … cô vừa … nói gì?”
Cô gái hất cằm, giọng thánh thót:
“Anh đã bao giờ tự hoạ chân dung của chính anh hay chưa?”
Hắn nhăn nhó đau khổ, mắt bỗng nóng ran, lúng búng:
“Có lẽ … chắc là … chưa.”
Cô gái cười, đứng dậy với thân thể mảnh khảnh trắng như bông gòn, tay chống nạnh nói:
“Vậy thì hãy vẽ đi, anh hãy vẽ để xem bức tranh có mùi gì? Mùi của anh chắc là đặc biệt lắm. Vẽ đi!”
Lời của cô gái như một mệnh lệnh bất khả kháng, làm cho hắn bủn rủn tay chân, nhất thời không biết phải làm gì. Hắn ngồi phịch xuống cái sàn gạch bông lạnh lẽo, mặt tái nhợt như mất máu. Hắn đốt thuốc, ém khói vào lồng ngực. Chừng ba hơi thì lấy lại bình tĩnh.
Cô gái vẫn đứng kia, trinh trắng và hồn nhiên, nhìn hắn với ánh mắt thương hại. Hắn lồm cồm đứng dậy, xua tay, nói lia lịa:
“Đi đi. Em hãy đi mau khỏi phòng này. Mặc quần áo vào, lẹ lên, coi như mọi chuyện đã xong rồi. Đi mau đi. Đi đi!”
Cô gái mỉm cười, bước lại lấy quần áo mặc vào, rồi đủng đỉnh bước đi. Ra đến cửa phòng, trước khi đóng cửa lại, cô gái nở một nụ cười khinh mạn, nhắc nhở:
“Nhớ vẽ chân dung tự hoạ của anh nhé. Chắc tranh có mùi đặc biệt lắm. Chào anh!”
Hắn bịt tai, nhắm mắt lại. Tiếng cửa đóng sầm tàn nhẫn. Hắn thở phào, đưa mắt nhìn quanh căn phòng vắng lặng. Chỉ còn một mình hắn. Và cái bóng in trên tường cũng bất động.
4 – Hắn mặc áo quần đi vào, đi một chặp, lại quay về phòng khách sạn với giá vẽ, bột màu, vải toan một cuộn. Hắn khoả thân trước tấm gương lớn gắn trên chiếc tủ đứng. Giá vẽ đã ở sẵn một bên. Hắn ngắm nghía tấm thân xanh xao ốm yếu của mình thật lâu, và bắt đầu tự hoạ chân dung, chân dung của hoạ sĩ vẽ tranh có mùi.
Vẽ xong bức đầu tiên, hắn đưa mũi tới trước ngửi thử, không nghe một mùi gì. Hắn dí mũi tới sát đụng tranh, hít khịt khịt liên hồi, vẫn không nghe mùi gì, kể cả mùi bột màu. Kinh ngạc, hắn vứt bỏ bức tranh vô hương hữu sắc ấy vào góc phòng. Hắn vẽ bức thứ hai. Vẽ xong, hít thử, ngửi thử, rồi lại đến cả liếm thử cũng không nghe mùi gì. Lại vứt vào xó, vẽ lại. Bức thứ ba, thứ tư, rồi bảy, tám, chín, mười … cho đến nửa đêm về sáng. Hắn vẫn không tìm được mùi gì từ những bức tranh tự hoạ chân dung.
Đúng 9 giờ sáng hôm sau, thấy trong phòng im ắng lạ thường, bồi phòng gõ cửa gọi khách. Vẫn lặng thinh. Cửa phòng được mở bằng chìa khoá thứ hai. Người ta thấy khách thuê phòng nằm co quắp dưới sàn nhà lạnh tanh. Giữa đống tranh ngổn ngang bừa bãi.
Hắn đã giã từ cõi trần.
Đống tranh chân dung tự hoạ không mùi không hương của hắn đem cho ai cũng không dám, không thèm nhận. Có người khuyên nên bỏ hết vào cỗ quan tài, chèn nhét quanh thi thể cứng đờ của hắn. Giờ nhập quan, các bác sĩ pháp y công bố kết quả khám nghiệm tử thi: nạn nhân chết vì bị … nghẹt mũi.
Khi cỗ quan tài được đóng nắp, bất ngờ một mùi xông lên lan toả ra khắp nhà. Đó không phải là mùi của hắn. Vợ con hắn nhất quyết khẳng định như vậy. Mà đó là một mùi hỗn hợp các thứ mùi thường có ở những nơi mà hắn từng đi qua, từng sống, từng chơi trong chuỗi tháng rộng năm dài lặn hụp kiếm tìm cặn bã vinh hoa …
MÃN ĐƯỜNG HỒNG
(Vĩnh Hữu Tâm Không)
