Nguyễn Phúc Trinh Thận (12 tháng 9 năm 1826 – 3 tháng 1 năm 1904), biểu tự Thúc Khanh, biệt hiệu Diệu Liên, lại có hiệu Mai Am, là một công chúa nhà Nguyễn và được biết đến như nữ danh sĩ Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Tác phẩm chính của bà tập thơ Diệu Liên thi tập, đã từng được nhiều danh sĩ ngơi ca. Bà cùng Nguyệt Đình và Huệ Phố được liệt vào Nguyễn triều Tam Khanh lừng danh trong văn đàn Việt Nam. Bà đã sáng lập ra Thỉnh Nguyệt Đình, là nơi bà chủ trì các đêm thơ, có sự tham gia của nhiều danh sĩ đất kinh kỳ.
Bên cạnh làm thơ, Mai Am còn có tài năng về âm nhạc. Cũng như nhiều người hoàng tộc nhà Nguyễn khác, bà cũng viết các bài ca, bản nhạc cho ca Huế. Dựa vào điệu Nam bình, bà đã sáng tác nhiều khúc hát tiếng Hán và tiếng Việt. Phỏng theo ca khúc Hồ Quảng, bà còn làm 10 bài ca, mà người Huế gọi là 10 bản Tàu bây giờ vẫn còn được truyền tụng, mang tên: Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn, Bình bái, Tây Mai, Kim Tiền, Xuân Phong, Long hổ, Tẩu mã.
Song, sự nghiệp phát triển là thế nhưng cuộc sống hôn nhân của bà không được suôn sẻ. Năm 1850, bà kết hôn với hiệu úy Thân Trọng Di. Cuộc sống của bà với Thân Trọng Di, theo nhà thơ Lương An thì hai người ăn ở với nhau tuy bề ngoài vẫn ấm êm, nhưng bên trong thì không được sắt cầm hòa hợp. Năm 1863, bà mới sinh con trai đầu lòng đặt tên Thân Trọng Mậu, tuy nhiên người con chưa đầy 5 tuổi thì bị bệnh qua đời. Sau này Mai Am không sinh thêm được người con nào nữa. Đau đớn vì mất con, bà đã làm 15 bài thơ khóc con Khốc nhi thi – thập ngũ thủ. Tháng 7 năm 1885, chồng bà Thân Trọng Di mặc dù đã 60 tuổi vẫn quyết theo đi ra Quảng Trị. Trong một đợt tấn công của Pháp, quân của Thân Trọng Di tan rã còn bản thân ông bị mất tích giữa rừng, về sau vẫn không tìm được hài cốt; phải lập mộ giả để thờ. Một lần nữa, sau khi mất con, Mai Am lại viết 15 bài thơ khóc chồng, được khắc trên ngôi mộ không của ông ở xóm Đông làng Nguyệt Biều.