Paris giờ này, nắng hay đang mưa
Ai đưa em vào quán vắng giữa mưa
Ai cho em… đường, ly cafe đắng
Phố vắng em rồi, nắng cũng…lưa thưa?
*
Tuyết đã bắt đầu có dấu hiệu tan nhanh, ngay vào lúc đó không khí lạnh mới bắt đầu lan tỏa giá buốt. Trong khi mọi người đang ngồi nhâm nhi dăm ba ly rượu đỏ, để bàn chuyện ngày mai chúng tôi đến Paris thì chuông điện thoại reo. Một cô cháu gái của tôi từ Sài gòn gọi đến, cháu hỏi xem chúng tôi sẽ làm gì khi quá cảnh Paris trên đường về quê mẹ?
Sau khi hiểu rõ nguồn cơn, cháu tôi bảo”chú hãy đợi đấy”, rồi như một người từ trên mây rơi xuống, một quý bà người Việt nào đó bạn của cháu tôi ở Paris gọi đến , bà cho tôi biết nhà bà còn mấy phòng trống, bà sẵn sàng chào đón chúng tôi đến trọ một vài đêm như những người bà con.
Mọi chuyện xảy ra như là trong mơ. Tàu cao tốc từ Brest đưa chúng tôi đến Paris vào một giờ rất khuya., Gare Montparnasse de París nằm sâu trong lòng đất 20 mét, đèn thắp tứ tung nhưng là loại đèn Warm-light, nó cũng chỉ đủ sáng làm cho màu da của chúng tôi vàng lại càng vàng thêm võ âm u. Tôi và người ấy dường như cùng một lúc nhận ra nhau, dù chúng tôi trước đó đều là những người không quen biết. Tôi lên tiếng “:bonsoir” và ra dấu cho vợ con tôi tiến lên để làm quen với người ấy. Thật là may mắn vì bà ta chỉ nói tiếng Việt và cũng chỉ trong vòng dăm ba phút , những người đàn bà tuyệt vời ấy đã nhanh chóng làm nồng ấm nhanh lẹ buổi tối mùa đông bắng giá, mà ai cũng ngỡ là họ đã từ trăm năm trước quen biết nhau.
Trên đường về nhà bà ta tôi suy nghĩ lung tung như một kẻ mộng du. Đêm đó tôi trăn trở không yên với nhiều câu hỏi ngớ ngẩn. Sáng ngày hôm sau không hẹn mà tất cả mọi người đều dậy rất sớm. Chúng tôi được bà chủ nhà cho ăn sáng qua loa. Sau đó ông chủ nhà bước xuống “bonjour”chúng tôi và có vẻ như ông không mấy quan tâm đến sự có mặt đeén khách quí. Hôm đó là một ngày nắng đẹp vì Paris tuyết vốn đã tan từ hai hôm trước, dân chúng được thông báo là sẽ có thêm vài ba ngày có nắng ấm.
Đúng 9.00 bà chủ nhà lại có một thông báo bất ngờ khiến chúng tôi vô cùng phấn khởi, bà vừa gọi đến sở làm của bà để xin nghỉ một ngày vì nhà có khách đến chơi. Sau đó bà chủ nhà còn cho biết bà sẽ là người hướng dẫn tôt, cho những người khách mà bà vừa quen đi dạo Paris.
Mọi người tỏ vẻ hoan nghênh bà và nói lời biết ơn bà, vì nếu không có bà đưa đường dẫn lối thì chúng tôi sẽ chết chìm trong các toa tàu điện ngầm ở Paris hoa lệ. Mười giờ rưỡi chúng tôi có mặt trên đường Boulevard des Champs Elysees, mà chúng tôi đã phải mất 2 tiếng đồng hồ chỉ để ngẩn tò te ra mà ngắm. Không kể thời gian nghỉ chân ở vườn Tuileries, sau đó chúng tôi đã có mặt trên cầu Pont des Arts , đây là cây cầu gỗ mà ai đến Paris cũng biết mà chỉ có chúng tôi là không biết. Đây là cây cầu đi dạo bằng gỗ bắc qua sông Seine với những ổ khóa tình yêu , mà tôi sẽ kể cho bạn nghe trong một bài viết dưới đây.
Nếu có ai đó gọi kỉ niệm là mùi…hương, thì đó là mùi hương thời gian cũng là một mùi hương đong đầy kỷ niệm. Lúc cả nhóm đi vào quảng trường Vendôme bà chủ nhà kiêm hướng dẫn viên đã làm tôi kinh ngạc, khi bà đưa tay chỉ con số 22, đường Rue des Saules và bảo rằng đây là nơi mà Chopin, nhà soạn nhạc tài danh Ba lan đã từng sống một thời gian trước khi khi trút hơi thở cuối cùng để đi vào cõi Vĩnh Hằng. Cạnh đó còn có một ngôi nhà nữa mà bà ta bảo là một “quán trọ”, nơi công nương Diana kiều diễm của nước Anh đã trải qua một kỳ nghỉ ngắn, trước khi cô ta qua đơi trong một tai nạn xe hơi ở đường hầm Alma. Và cũng ở trên con phố này, vào năm 1956 nhà văn Hemingway đã được một nhân viên khách sạn, trả lại cho ông ta hai thùng đồ ông đã để quên trước đó 29 năm. Đặc biệt là trong hai thùng đồ ấy, Hemingway đã tìm lại được rất nhiều tờ ghi chú và một tập bản thảo viết tay, sau này trở thành cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mang tên :”Paris Là Một Buổi Vũ Hội”.
Không xa nhà khách đó bao lăm là tòa nhà “Đại sảnh Galerie Vivienne” với con đường hầm bí ẩn, một lối đi dạo đặc biệt được người Paris mến yêu. Bên trong tòa đại sảnh còn có các bức tường sơn màu vàng được trang trí bằng các hình ảnh thần thoại. Có rất nhiều cửa hiệu nhỏ và không gì tuyệt vời hơn khi bạn thả bộ qua đây vào mỗi lúc hoàng hôn.
Có người còn cho biết nơi đây cũng là dinh thự của ngài Trưởng Ban mật thám François Vidocq thời Napoleon, vị trưởng thám này là một người cực kỳ uyên bác trong việc quản lý mạng lưới thông tin thời đế chế. Dưới sự giúp đỡ của ông ta, hoàng đế Napoleon đã xây dựng được một mạng lưới tình báo giá trị, ổn định đế chế và ngăn chặn các cuộc tấn công của kẻ thù. Francois Vidocq nghỉ việc vào năm 1832 sau 17 năm đế chế sụp đổ ! Rồi ông ta lại biến mất một cách đột ngột cùng với khối tài sản khổng lồ. Người ta đồn rằng hẳn phải có một đường hầm bí mật nào đó dưới lòng đất, nối liền căn hộ Vivienne của ông và cung điện hoàng gia nên ông mới có thể biến mất như đã bốc hơi. Cũng trong vùng cổ…tích này bạn còn có thể đi qua con phố huyền thoại khác, mà người nào đã từng sống ở Paris nhiều năm đều biết là đường Mouffetard và khu phố Latin đặc kín các quán cà phê và các nhà hàng đặc sản.
Người hướng dẫn DL không chuyên nhưng rất uyên…bác này con kể, tại ngôi nhà số 53 trên con đường này, vào năm 1936 trong lúc người ta phá hủy tòa nhà để xây mới, một công nhân người Ý đã nhặt được một bọc giấy chứa những đồng tiền vàng hình Louis XV. Anh ta đếm được 3.351 đồng trị giá gần 16 triệu franc tương đương 3 triệu euro ngày nay. Số tiền kếch xù này là của Louis Nivelle một cố vấn và thư ký riêng của nhà vua. Ông ta qua đời đột ngột vì một cơn trụy tim vào năm 1757. Trên miếng vải bọc tiền ông ta viết rằng, ông muốn để lại số tiền này cho người con gái của mình là Anne-Louise Nivelle. Những người con gái dó đã chết trong nghèo đói trước đó, và cô ta không hề biết đến sự tồn tại của người cha yêu mến của mình.
Từ đó câu chuyện bí mật đó về ông dần dần hé lộ, ông chính là ngài Louis Nivelle có một cuộc sống cực kỳ xa hoa, với người vợ chính thức trên phố Coutellerie trong khu sang trọng bậc nhất Des Halles. Ông là một người sùng đạo có một nà thê thiếp sống cùng trong một căn hộ bí mật trên phố Mouffetard. Khối tài sản nói trên được ông cất giấu cho con gái của ông với người phụ nữ này. Điều đáng buồn là người ta chỉ tìm thấy nó sau đó hơn hai thế kỷ ông ta chết. Tài sản khổng lồ này đã được chia đều cho những người thừa kế hợp pháp , một phần dành cho người tìm ra kho báu và phần còn lại nộp vào kho bạc nhà nước.
Đến 04 giờ chiều bà hướng tuy đã thấm mệt, trông bà dường như đã kém đi vẻ xinh đẹp mỹ miều, nhưng bà cũng đưa chúng tôi vào uống thử một cốc vang đỏ của một quán thời thượng. Nếu bạn có lần ghé qua quận 18, thì mời bạn dừng chân ở số nhà số 4 đường Rue des Saules, đây là một quán rượu rất nổi tiếng có tên là “Le Lapin Agile”. Ngôi nhà xây vào năm 1795, đến năm 1860 nó trở thành một quán trọ có tên “Nơi Gặp Gỡ Những Tên Trộm”. Năm 1869 vì do những bức tranh miêu tả các cảnh ám sát treo trên tường, mà quán lại đổi tên thành “Cabaret des Assassins”. tức Quán của những kẻ Giết Người. Trong khoảng thời gian từ năm 1879 tới 1880, chủ quán lại nhờ họa sĩ André Gill một khách hàng quen của quán trang trí lại biển hiệu, Andre Gill đã vẽ một con thỏ đeo chiếc khăn màu đỏ nhảy ra khỏi một cái nồi. Từ đó quán bắt đầu được biết đến với cái tên “Lapin à Gill” , rồi sau đó thành quán “Lapin Agile”, nơi hội tụ của nhiều văn nghệ sĩ Paris tên tuổi đương thời Max Jacob, Pablo Picasso, Apollinaire…
Picasso cũng đã vẽ một bức họa nổi danh về quán mà về sau người ta đã bán qua Mỹ 40 triệu đôla mang tên “Au Lapin Agile”. Picasso vẽ bức tranh này để trả cho một bữa ăn. Cuối cùng chúng tôi yêu cầu được ghé đến các quán bia bình…dân giá rẻ. Quán bia giá rẻ thứ nhất có tên là Le Syphax, 26 rue Chateaudun, quận 9 Paris, chính hiệu là một quán giá rẻ vì một cốc bia tươi cỡ 50 centi lit chỉ cho 2 Euro.. Quán thư hai là quán Métro Notre Dame de Lorette nằm gần cầu Le Petit, nơi có đoạn đường tàu điện chạy sâu dưới lòng sông Seine 20 mét. Quán thứ ba là quan .La Coupe du Chateau Rouge, 40 rue de Clignancourt, quận 18 Paris. Và còn thêm 07 quán nửa sau này hy vọng tôi sẽ kể bạn nghe tiếp.
Tiếp tục cuộc đi dạo không mục đích, chúng tôi bước trên một con đường nhỏ lát lởm chởm, đưa vào một con hẻm uốn cong vòng theo hai dãy nhà sơn đủ màu sắc với những giàn hoa tử đằng và hoa ti gôn phủ đầy mặt tiền.
Mọi nhà đều có hàng rào và những chiếc cổng chỉ nhỉnh hơn đầu người mang tính trang trí hơn là để chống trộm. Đó là những con đường của làng Charonne, quận 20 -Paris, người ta có cảm giác đang đi lạc vào một vùng quê ở La Campagne à Paris. Bước chân thời gian chầm chạp như ngừng trôi, thay bằng những bước đi đủng đỉnh của những chú mèo thỉnh thoảng ngoái nhìn “người nước lạ”, và tiếng ồn của xe cộ được thay bằng tiếng chao xào xạc của cành lá. Hầu hết các “làng” còn lại đều nằm ở các quận vành đai do quá trình mở rộng Paris, lấn thêm 11 làng và thị trấn năm 1860 theo kế hoạch của nam tước Haussmann. Từ 12 quận Paris chính thức thành 20 quận, nhiều khu vực mới được sáp nhập chủ yếu hoạt động nông nghiệp, trồng nho và sản xuất rượu nho hoặc khai thác mỏ. Ví dụ làng Vaugirard, quận 15 cho đến thời Phục Hưng vẫn trồng rau cung cấp cho nội đô. Đến thế kỷ XVIII thì xuất hiện nhà máy hóa chất đầu tiên và từ đó nhiều nhà máy khác xuất hiện dọc sông Seine. Làng Charonne ở quận 20 từng là khu vực điền dã của giới quý tộc Paris. Từ giữa những năm 1911 đến 1928 khu “Nông Thôn Mới” được xây dựng trong khu vực, gồm 92 ngôi nhà dành cho công nhân, công chức và nhân viên có thu nhập thấp. Chính vì lòng đất đầy hầm mỏ nên không thể xây những tòa nhà cao tầng, thay vào đó là những ngôi nhà nhỏ xinh xắn vẫn được gọi là “nhà đá cối”, theo tên gọi loại đá thường được đẽo thành cối xay và được sử dụng để xây nhà.
Tương tự, làng Butte-aux-Cailles quận 13, nổi tiếng với tên gọi “la Petite Alsace” gồm khoảng 40 ngôi nhà, thiết kế theo kiểu kèo gỗ đặc trưng của miền bắc nước Pháp. Từ khu Mouzaïa quận 19, làng Charonne quận 20 đến làng Peupliers quận 13, tất cả có một điểm chung là được xây từ giữa thế kỷ XIX đến những năm 1930, nhằm cải thiện điều kiện sống và vệ sinh của công nhân, chủ yếu làm việc trong các mỏ thạch cao và đá vôi ở trong khu vực thời bấy giờ.
Làng Bercy, ở quận 12 cách đó không xa với lợi thế nằm ngay cạnh sông Seine, trong suốt nhiều thế kỷ là chợ bán buôn rượu vang và đồ uống có cồn lớn nhất thế… gian. ơi này bị bỏ hoang vào cuối những năm 1970, những căn nhà nhỏ nối liền nhau của khu chợ đã được cải tạo thành các cửa tiệm, nhà hàng, bên cạnh là khu công viên Bercy nổi tiếng.
Quận 16 ở phía tây Paris có hai làng Passy và Auteuil nổi tiếng. Làng Passy trước chỉ là những ruộng nho của các nhà dòng, trở nên nổi tiếng nhờ giới quý tộc Paris muốn tìm không gian tĩnh lặng mà không cách quá xa trung tâm. Rất nhiều ngôi nhà có vườn riêng được xây từ thế kỷ XVIII dọc những con phố nhỏ được lát đá. Cách đó không xa là làng Auteuil với những khu biệt thự được thiết kế theo phong cách nghệ thuật mới. Khu biệt thự Montmorency trong làng Auteuil hoàn toàn khép kín là nơi ở của nhiều nhân vật nổi tiếng và chủ doanh nghiệp giàu có như Xavier Niels, tổng giám đốc nhà cung cấp mạng viễn thông Free hay Vincent Bolloré, tổng giám đốc tập đoàn cùng tên. Với khoảng 50 biệt thự trong đó biệt thự nhỏ nhất, rộng chỉ có… 145m2, khu Montmorency còn có nhiều biệt thự mang phong cách Anglo-Normand,và một trang viên duy nhất tại Paris được xây theo phong cách tân gothic.
Trên đảo Saint-Louis quận 4 và khu Le Marais quận 3, nằm giữa lòng Paris vẫn còn lưu lại nhiều nét một ngôi làng cổ, những ngôi nhà ở Paris biến mất theo thiết kế quy hoạch đô thị của bá tước Haussmann vào năm 1860. Theo thống kê của Insee, được Le Figaro trích lại, thì Paris có 13.094 ngôi nhà xưa mà phần lớn là năm ở các ngôi làng. Những ngôi nhà thời trung cổ gần như không còn nữa , mà chỉ còn lại một vài biệt thự tư nhân đã biến thành bảo tàng và một vài ngôi nhà kèo gỗ có đầu hồi hướng ra phố, bị cấm xây dựng ngay từ năm 1667 sau vụ cháy thảm khốc nhiều ngôi nhà như vậy ở Luân Đôn. Những ngôi nhà mang giá trị đặc biệt được bảo vệ nhờ luật Malraux được thông qua năm 1962. Tuy nhiên, theo giới sử gia, thì cần phải có thêm những giải pháp hợp thời hơn trong bối cảnh Paris không ngừng mở rộng, vì “đó là những thời điểm lịch sử mang cùng giá trị như các viện bảo tàng”.
