ĐỨA CON RƠI

(Truyện ngắn của Trịnh-Tuyên) 

    Tiến sỹ luật Chu Thanh Thuý là người danh tiếng nhất trong hội luật gia cả nước. Tạo hoá  ưu ái ban tặng riêng cho chị tài sắc vẹn toàn. Đôi mắt đen nhánh,  ánh nhìn sâu thẳm, sắc sảo và kiên nghị. Khuôn mặt trái xoan, sống mũi thẳng, da trắng như trứng bóc. Khi đứng trước toà biện hộ, giọng chị như hát, êm ái du dương  đầy sức thuyết phục. Ở chị, tất cả  nguyên tắc khô cứng  trong các điêù luật đã  hoà hợp cùng  các biến động  tâm hồn con người theo  cung bậc mà  thuật ngữ gọi  là giá trị nhân bản. Cuộc sống đầy những biến ảo, hình thái,  bảo vệ giá trị nhân phẩm con người cả bị khi sa ngã được chị nâng lên thành nghệ thuật ở tầm cao – Kẻ phạm tội không bị bị xúc phạm, người bị hại mở  lòng  thứ tha. Khi nghệ thuật ấy đã đạt đến đỉnh, là cái chìa khoá nhân văn đã tra vào đúng ổ, mở ra cánh cửa cuộc sống và tình yêu thương mênh mông giữa người với  người. Chị cất tiếng nói giữa phiên toà xét xử kẻ phạm tội như lời thánh chúa, khi đó, cả quan toà lẫn kẻ phạm tội đều chảy nước mắt xót thương cho những lỗi lầm và tội ác còn chế ngự nơi cõi trần gian. Kết thúc cuộc tranh tụng bao giờ cũng là những tràng vỗ tay ca ngợi chị, ca ngợi tấm lòng của một vị luật sư,  người biết dạo bản hoà âm giữa lương tri và tội ác.

  Trước năm 1975 của thế kỷ trước, ở một vùng quê miền trung du có một người phụ nữ vừa cưới chồng. Cưới nhau được năm ngày, anh ra đi chiến đấu để lại hậu phương  người vợ trẻ vò võ đợi chờ. Thời đó, nông thôn miền Bắc còn rất nghèo, nhà nọ cách xa nhà kia vài trăm mét. Vợ chồng  chị mới ra ở riêng nên mỗi khi xay lúa thường phải đi xay hộ nhờ cối  xay của nhà hàng xóm. Xay nhờ một vài lần thì được chứ cả năm, sao tiện? Nhất là nhờ ở những nhà khó tính. Khi chồng chị đi xa, chị nuôi chí phải đóng cho được một cái cối xay lúa để khỏi phiền hà đến hàng xóm. Một chiều đông rét mướt, khi chị đang cố giã cho xong  cối gạo thì có tiếng rao: “Ai cối xay không”?

  Ngoài ngõ, một gã đóng xay người thấp lùn, trên vai quẩy một bên  hai cái vồ, cái to, cái nhỏ, một bên là một cái cưa. May quá rồi! Bấy lâu nay  mong mãi, giờ mới gặp. Chị liền gọi: Có đây! Có đây!      

   Đóng được một cái cối xay lúa phải qua rất nhiều công đoạn và thời gian  ít nhất cũng phải bốn năm ngày. Trước tiên là chặt tre, chẻ nan  đan thành hai cái vòng tròn gọi là thớt trên thớt dưới. Trong hai  vòng tròn  nhồi chặt đất sét. Cưa gỗ nhãn  từng khúc có độ dài chừng mười lăm phân, chẻ ra từng miếng gỗ mỏng vừa bằng bàn tay đóng vào khối đất sét thật chặt, gọi là “nêm” xay. Trong dân gian khi chật chội, người ta thường hay dùng cụm từ “nêm như nêm cối” là từ việc đóng xay xưa mà ra. Các miếng gỗ mỏng được đóng dầy xít xịt tạo thành bề mặt của thớt xay. Khi đặt hai thớt vào nhau xoay quanh cái “ngỗng” xay, lúa chảy xuống được chà xát giữa hai cái thớt, bong  vỏ  thành gạo. Muốn cho gạo thật trắng để có bữa cơm ngon, phải bỏ vào cối giã kỹ. 

     Muốn đóng xong một cái cối xay, lão phó cối phải ở lại nhà chị ít nhất bốn ngày. Trong nhà chỉ có một mình chị, kể ra cũng bất tiện. Nhưng chiến tranh, đàn ông đều đã ra trận, hậu phương lại là một vùng quê hẻo lánh, mọi chuỵện đều có thể châm trước. Lão phó cối trông hình thức bên ngoài không mê được, chỉ có khuôn mặt lão trông sáng sủa, đôi mắt lanh lẹn thông minh. Đôi bàn tay gân guốc, nhất là  cánh tay của lão rất khoẻ. Lão cầm cán vồ gỗ nặng trịch nâng lên nâng xuống nhẹ nhàng cứ như người nhạc trưởng cầm chiếc đũa chỉ huy giàn nhạc. Khuôn mặt lão có những nét thật ấn tượng: Sống mũi thẳng, đôi mắt sắc sảo nhưng  u uẩn. 

   Đàn ông ở chung với đàn bà một ngày đã dài huống hồ bốn năm ngày. Có lão phó cối,  chị thấy nhà vui hẳn lên. Bữa cơm chiều không còn lạnh lẽo. Lão ở nhà đóng xay, chị vẫn đi làm đồng. Nhà có gì ăn nấy, thợ đóng xay không đòi hỏi như các thợ khác. Khác là chị mua thêm cho lão cút rượu để lão “ rãn xương cốt” vì làm cặm cụi cả ngày. Như thế người ta gọi là nuôi thợ trong nhà.

       Đêm đầu tiên lão phó cối ở chung nhà, chị không sao ngủ được. Chồng chị ra đi chiến đấu đã gần năm năm không một dòng tin tức gửi về. Nhà chỉ có một tấm chăn bông mỏng  chị sắm khi  cưới chồng. Lão phó cối nằm kế bên trên cái chỏng tre, đắp độc manh chiếu, rét quá  không ngủ được, dậy hút thuốc lào sòng sọc. Liếc nhìn qua mép chăn bông, chị thấy lão phó cối  khuôn ngực vạm vỡ, cặp đùi như đùi ếch, ngồi dạng ra áp vào bếp lửa. Đôi mắt lão nhìn vào bóng đêm thăm thẳm một nỗi buồn. Hình dung lại công việc lão tận tâm tận lực làm ban chiều, chị chợt thở dài cảm thương cho số phận của lão.

       Đêm thứ ba, không thể ngủ được, chị  trở dậy. Chị lẳng lặng đi ra ngoài vườn lấy thêm củi, tự tay rửa khoai cho vào nồi rồi cùng lão luộc khoai ăn đêm cho vui. Đêm mùa đông dài lắm, hai người  ngồi bên nồi khoai, thức mãi mà trời vẫn chưa sáng. Ngoài sân,  trời tối đen như mực, sự trống vắng ở một vùng quê như chạm đến tột cùng trong giai điệu buồn thảm của muôn loài côn trùng, cùng ễnh ương cóc nhái đang  tấu lên nỗi khát khao và buồn tủi.

  Lão phó cối kể cho chị nghe nhiều chuyện về cuộc đời của lão. Lão bảo, cuối năm học lớp bảy, lão đã được chọn đi thi học sinh giỏi toán toàn tỉnh. Nhưng đúng lúc ấy, lão trèo cây bị ngã ngồi, trọng lực đã  làm cho xương sống lão bị dồn xuống. Ai cũng bảo lão không qua khỏi bởi con người ta có mỗi một cái xương sống mà tụt lại rồi sống làm sao? Thế mà lão vượt qua, nhưng  xấu hổ với bạn bè vì cái lưng còng xuống như một ông già.  Lão bỏ học, cũng như bỏ đi cơ hội thành đạt của một đời người để học nghề đóng xay,  mấy chục năm trời. Kể đến đoạn đó, trông lão buồn bã lắm khiến lòng chị cũng thấy nao nao.

 Ngày thứ tư thì cái cối xay  hoàn thành. Cái cối đại trông rất vững chãi và hoành tráng. Từ nay chị sẽ không phải mang lúa  đi xay nhờ hàng xóm nữa. Buổi  chiều chị đổ lúa vào cối cùng lão xay thử. Hai người đứng sát bên nhau. Bốn bàn tay cùng nắm chung một khúc gỗ gọi là cái “tay tràng” xay.  Bàn tay chị  trắng trẻo mềm mại,  đặt bên tay lão mầu da lươn cứng cỏi và khoẻ mạnh, hai bàn tay chỉ cách nhau một sợi dây thừng buộc ở giữa  treo lên xà nhà cho cái “tràng xay” giữ thăng bằng. Lão xay khoẻ lắm. Gạo cứ văng ào ào xuống cái vành xay chẳng mấy chốc đã xong một cối lúa. Lão bảo chị đổ lúa vào xay thêm một cối nữa. Chị đứng bên lão cảm giác hơi ấm từ thân thể lão lan tỏa sang, rất đàn ông. Chị chợt nghĩ,   nếu không bị tật nguyền, lão cũng giỏi dang như bao chàng trai khác, chứ có kém ai? . Tự nhiên chị thấy lão thật gần gủi. Người đàn bà thời chiến tranh đã  bốn năm xa chồng, một mình lầm lụi với công việc đồng áng khó nhọc không một ai giúp đỡ chia sẻ, chị chợt nhận ra, mình cũng một người thật  đáng thương…

 Nếu  chiều hôm đó còn gạo ăn thì  có lẽ  không có gì để mà nói. Đời thường thế, mọi việc do trời sắp đặt.  Chị vào thùng lấy gạo thổi cơm chiều,  thùng gạo vừa  hết, đành phải giã nhanh một cối gạo để lấy cái nấu ăn.

      Cái chày làm bằng thân cây, trên đầu đóng một khúc gỗ ngắn vuông góc gọi là mỏ chày. Dưới mỏ chày là cối đá. Gần đoạn cuối của thân chày, người ta đục thông và đóng vào một khúc ngang ra như ngạnh cá trê đặt trên hai cái trụ gỗ. Cái chày giống như cái bập bênh, chỉ có điều bên dài bên ngắn. Người giã gạo đứng phía bên ngắn, dùng lực bàn chân nhún cho chày vổng lên rồi buông chân ra. Mỏ chày rơi tự do vào cối đá, những hạt gạo cọ mạnh vào nhau. cứ thế cho đến khi gạo trắng. Qua công đoạn dần sàng loại bỏ sạch vỏ trấu và cám, khi đó thành phẩm cuối cùng là hạt gạo mới bỏ vào nồi nấu thành bát cơm thơm dẻo.

 Thân chày rất nặng, chị đứng trước, lão đứng sau. Trời rét lắm cho nên lão cứ muốn đứng sát vào người chị. Ban đầu thì chị ngượng, cứ nhích lên phía trên, nhưng nhích mãi lên phía trên thì làm sao nhún được chày?  Lão cứ ép sát vào lưng chị,  khiến chị thấy khó chịu lắm nhưng cũng cố chịu đựng cho xong cối gạo. Giã xong cối gạo, người chị run lên, mềm oặt,  mệt nhừ như người vừa vượt qua một quảng đường lầy lội.

 Trời đã tối, chị bắt một con gà mái ri nhờ lão cắt tiết. Nồi cơm vừa cạn, chị xăm xăm đi mua cút rượu đãi thợ khi xong việc, gọi là “hồi công”. Lão phó cối uống hết cả cút rượu. Lão chỉ nhắm độc có đôi chân gà và cái thủ. Phần nạc, lão cố ý nhường cho chị. Lão tuyên bố đóng giúp chị cái cối xay chứ nhất định không  nhận một đồng tiền công nào.

 Một lão phó cối nghèo nhưng tốt bụng. Thường những người phụ nữ họ chỉ cảm phục và hiến thân cho những người đàn ông cao thượng. Chị không hiến thân nhưng chị cảm phục tay nghề và trí thông minh của người đàn ông này. Những người làm nghề đóng xay, dân quen gọi là lão phó cối, nhưng cũng chỉ hơn chị tám chín tuổi.

 Đêm hôm ấy, lão phó cối ngủ say như chết còn chị lại vật vã không sao nhắm mắt được. Manh chiếu đắp trật khỏi mình lão, rơi xuống đất. Trời rét lắm, lão nằm trống trơ như thế, chị sợ lão bị cảm lạnh.  Một con người nghèo mà tốt bụng như thế, nhỡ không may mà  trúng gió qua đời thì chị gánh sao hết tội? Chị trở dậy lấy cái chăn bông mình đang đắp đắp lên người lão rồi mang manh chiếu về giường đắp cho mình. Đêm càng khuya, thời tiết càng xấu, ngoài sân, gió giật đùng đừng. Lại đến lượt chị rét run cầm cập. Không thể cho lão nằm chung trên chiếc giường cưới thiêng liêng, nơi mà chỉ người đàn ông duy nhất được ngự là chồng chị. Chị mò mẫm sang chiếc chõng tre nơi có lão phó cối đang nằm ngáy ro ro,  lặng lẽ chui vào, dang vòng tay ôm lấy tấm thân có cái lưng gù gù của lão phó cối rồi bật khóc nức nở.

 Không! Chị dứt khoát không phải là người đàn bà hư hỏng. Với trái tim đa sầu đa cảm, chị chỉ thương cho thân phận người đàn ông tài đức song toàn mà bạc mệnh cũng như cảm thương cho cuộc đời  của một người con gái vò võ chờ chồng như chị.

 Lão phó cối chợt tỉnh và lão nhận ra tất cả tình cảm của chị. Lão quay lại với đôi cánh tay quai vồ mạnh mẽ ôm chị vào lòng và lão cũng khóc. Lão biết lão đang làm những điều lương tri lão không thể tha thứ.

 Trong cái đêm nghiệt ngã ấy, trên chiếc chõng tre trong ngôi nhà lá đơn sơ ở một vùng quê nghèo miền trung du, lão phó cối đã gửi lại giọt máu của mình. 

 Sáng hôm sau, lão dậy từ lúc trời vừa chạng vạng. Cả một tuần liền bầu trời u ám, ngày đầu tiên phía đông bổng bừng sáng, báo hiệu một ngày đẹp trời hay báo hiệu cho một tương lai cho cái mầm sống mà lão vô tình gửi lại kia.

 Lão phó cối đi được hai tuần thì chồng chị về. Chị lả đi trong tay của anh như một tàu lá chuối hơ trên lửa. Chị biết chị đã có thai với lão phó cối. Chị không xứng đáng với tình yêu của anh, chị đáng phải băm vằm tấm thân ô uế ra làm trăm ngàn mảnh. Nhưng anh chỉ được ở với chị có ba đêm, sau đó, anh đã phải có mặt ở đơn vị chuẩn bị cho một trận đánh lớn.

 Lần ấy anh ra đi rồi vĩnh viễn không bao giờ quay lại với ngôi nhà nhỏ, nơi có người vợ trẻ ngày đêm vật vã với những ý nghĩ tội lỗi cùng cái cối xay mà mỗi vòng quay khiến cho chị như muốn khuỵ xuống không còn khả năng bước tiếp được nữa. Suốt trong mấy tháng trời mang thai, không một đêm nào chị không khóc. Phần nhớ thương chồng, phần oán trách phận mình, cứ mỗi lần đổ lúa vào xay, mặt chị đỏ bừng bừng, mọi hình ảnh trước mắt cứ chao đảo như người say rượu. Xay xong một cối lúa, chị đổ sụp xuống như mới qua một cơn bạo bệnh.

Chín tháng sau cái ngày lão phó cối đến nhà đóng xay, chị sinh đứa con gái đầu lòng đặt tên là Chu Thanh Thuý. Tên anh là Chu Văn Thanh, tên con là Chu Thanh Thuý. Đứa con gái nối tiếp dòng máu thông minh của cha nó nhờ sự chăm sóc của nhà nước theo chế độ “ưu tiên con liệt sỹ”. Chu Thanh Thuý học giỏi được nhà nước cấp học bổng đi du học nước ngoài và đã thành danh. Lão phó cối  từ cái buổi sáng lạnh lẽo ấy ra đi với đôi chày vồ cùng cưa đục, không hề hay biết phút giây gặp gỡ người đàn bà cô đơn trên chiếc chõng tre ấy, đứa con gái mang dòng máu  của lão đã ra đời và trở thành một nhân vật nổi tiếng cả nước. Đã hơn bốn mươi năm trôi qua, lão phó cối không một lần trở lại ngôi nhà của chị. Bây giờ, chị cũng đã gần bảy mươi xuân, mỗi khi trời trở rét, chị lại mơ màng nhớ về cái đêm thời xa ấy. Nhiều đêm chị tỉnh dậy, nghe như có tiếng rao ngoài ngõ: “ai cối không”. Đúng chất giọng  của lão phó cối ngày ấy, ngân nga, âm điệu chứa chất bao nhiêu khao khát, buồn tủi của một kiếp người. Chị ngồi dậy, mò mẫm xuống nhà kho,  hồi tưởng lại cái đêm nghiệt ngã ,  lần tìm cái tràng xay, đâu đây, còn vương chút  hơi ấm bàn tay của lão phó cối…

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *