– Do ảnh hưởng của truyện Tàu, của hát bội, cải lương, nên không ít người nghĩ rằng trong cuộc sống hàng ngày nơi cung cấm hẳn hoàng gia cũng gọi nhau như tiểu thuyết từng mô tả, chẳng hạn con gọi mẹ là “mẫu hậu”, mẹ gọi con làm vua là “vương nhi” v.v. Tôi cũng hơn một lần nghĩ như thế cho đến khi biết được sự thật. Hoàng gia Nhà Nguyễn gọi nhau khá bình dị nhưng trong sự bình dị đó vẫn hàm chứa tính cách vương giả. Chẳng hạn:
– Vua gọi mẹ (hoàng thái hậu) là Ả. Tuy vậy, người mẹ không phải thái hậu cũng được con gọi bằng Ả như cựu hoàng Bửu Lân trước khi lên ngôi;
– Hoàng thái hậu gọi vua là Con hay Hoàng đế;
– Vua gọi hoàng hậu (hay Nhứt giai phi) và các thứ phi bằng Bà;
– Con gọi vua cha là Đức Cha;
– Cháu gọi bà là Đức Bà;
– Em gọi anh là Đức Anh (hay Đức Yên), gọi chị là Đức Chị;
– Hoàng gia và triều thần gọi vị vua đã quá cố (băng hà) là Đức Tiên Đế và các vị vua đời trước là Liệt Thánh.
Vua xưng với các quan là Trẫm hay Ta và gọi các quan là ngươi. Để tỏ lòng yêu mến thì gọi là khanh, hoặc tôn trọng hơn nữa thì gọi là thầy. Các quan khi đối thoại với vua thì xưng là chúng tôi. Những danh xưng như thần, hạ thần, cũng có thể dùng hoặc không trong đối thoại nhưng tuyệt đối phải dùng trong giấy tờ dâng lên vua (sớ, biểu). Ngoại trừ hoàng thái hậu, còn tất cả, từ hoàng hậu trở xuống cho tới các quan và thứ dân, mở đầu đối thoại với vua, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều phải dùng chữ tâu hoặc tấu để mở đầu câu nói.
Vua thì phải khác người thường, do đó những gì liên hệ tới công việc và cuộc sống hàng ngày của vua cũng có thể cách riêng để diễn tả. Vua ăn thì gọi là Ngài ngự thiện; vua ngủ là Ngài ngơi hay Ngài ngự ngơi; vua ngủ chưa dậy là Ngài ngơi chưa tánh; vua bệnh gọi là Ngài se mình; vua cho ai cái gì thì gọi là Ngài ban hay Ngài ân tứ. Ngài ban cũng có nghĩa là vua ra lệnh, vua truyền phán, vua nói về một điều gì đó. Nếu bữa cơm của vua với ba mươi lăm phẩm vị đã có thể được mô phỏng để trở thành mâm giỗ đặc biệt của người Huế thì lối nói năng của cung đình, qua trung gian của đẳng cấp quan lại và gia đình họ, hẳn phải gây ít nhiều ảnh hưởng trong cách nói của người Huế.
Người Huế chúng ta, nhất là lớp cũ, hẳn không lạ gì phong cách của các “mệ” (danh xưng để chỉ nhưng người trong Hoàng tộc, bất kể nam hay nữ) trong cách ăn nói, luôn luôn biểu lộ cái vẻ quyền uy, đài các, có khi đến độ gần như giả tạo, nếu nhìn dưới một khìa cạnh khác. Một giai thoại kể rằng có một “mệ” vốn là con cháu của một ông hoàng, nhưng vì ăn chơi quá độ nên cảnh nhà trở thành sa sút, thường phải vay mượn, thậm chí, có khi phải xin tiền của người quen biết trước kia để mà tiêu. Thế nhưng kiểu xin của mệ cũng khác người ta. Xin vài xu để mua khoai lang luộc ăn cho đở đói nhưng mệ lại nói: “Nì, có tiền dâng mệ ít nhiều để mệ chém đầu mấy củ khoai.” Nếu không phải là Huế, đã biết về các mệ, thật khó thưởng thức câu nói đầy tính hài hước đó.
Trong giao tiếp, đối với vua, muốn nói một điều gì, tất cả phải mở đầu bằng “tâu”. Còn quan cấp nhỏ nói với quan cấp trên thì phải “thưa” hoặc “bẩm”, có khi còn phải thêm chữ “kính” ở đàng trước nếu muốn tỏ lòng cung kính hơn, hoặc muốn giở giọng nịnh. Những lối nói này cũng áp dụng trong dân dã khi họ đối thoại với những người có địa vị hoặc những bậc tuổi tác, trưởng thượng trong gia đình.
– Võ Hương An –
Nguồn: Sanh Huỳnh/ĐVCP
