LẦN ĐẦU TÔI GẶP NGƯỜI MỸ
-Bảo Ninh-
————————–
Chuyển ngữ và biên tập lại từ bài viết “The First Time I Met Americans”, đăng trên The New York Times số ra ngày 05/09/2017. Nội dung gốc thuộc về The New York Times. Link
————————–
Bảo Ninh là cựu chiến binh của QĐNDVN từ năm 1969 đến năm 1975, đồng thời cũng là một nhà văn, tác giả của cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”. Bài viết được dựa trên những đóng góp của Bảo Ninh cho bộ tài liệu “The Vietnam War: An Intimate History” của Geoffrey C. Ward và Ken Burns.
————————–
————————–
Hà Nội, Việt Nam
Tôi lần đầu có dịp ghé thăm nước Mỹ vào mùa hè năm 98, ấy là khi tôi được mời tham dự một buổi hội thảo văn học ở Montana cùng 4 nhà văn Việt Nam khác. Chúng tôi bay từ Hà Nội sang Đài Loan rồi mới bay đến Los Angeles. Băng qua Thái Bình Dương và gần chục múi giờ, tôi vùi mình trong giấc ngủ và chỉ thức giấc khi máy bay đã hạ cánh xuống phi trường. Khi bắt đầu kiểm tra hộ chiếu, tôi mới bắt đầu ngỡ ngàng trước cảnh tượng nhãn tiền: Người Mỹ ở khắp mọi nơi, rất nhiều người Mỹ! Tôi sẽ không bao giờ quên cái cảm giác kì lạ ấy.
Thật kì quái, khó tin, và siêu thực – tôi một cựu chiến binh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, đang ở nước Mỹ, vậy quanh bởi người Mỹ.
—
Lần đầu tôi nhìn thấy người Mỹ là khi 12 tuổi, nhưng không phải là những con người tóc vàng mắt xanh bằng xương bằng thịt. Người Mỹ tôi thấy là những chiếc F-4 Phantom oanh tạc những trị trấn bên rìa Vịnh Hạ Long. Đó là ngày 05/08/1964, khi tôi cùng đám bạn học đang vui vẻ chơi đùa trên bờ biển trong một chuyến đi tham quan của trường. Cũng là cái ngày tiếp sau “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, cái ngày Tổng thống Johnson tuyên bố leo thang chiến tranh tại Việt Nam.
Sau ngày ấy, cuộc sống của cha mẹ tôi, anh chị em tôi, của toàn bộ nhân dân Việt Nam, đã bị đảo lộn hoàn toàn. Chúng tôi sống dưới một bầu trời ngày đêm rực lửa, với những tiếng bom gào thét, những cuộc oanh tạc chói tai loà mắt, những tiếng còi báo động đầy thúc giục. Những hầm trú bom đào dọc ngay nơi đường phố, ngay dưới mỗi căn nhà ở Hà Nội. Điện nước thiếu thốn trầm trọng, đến đêm nhà nào cũng tối đèn. Quần áo, sách vở, nhiên liệu, giấy bút và những nhu yếu phẩm khác đều được phát theo khẩu phần ít ỏi, với những hàng dài xếp hàng đợi đến lượt. Trẻ em và thiếu niên rời xa cha mẹ đi sơ tán về vùng quê. Những điều này có lẽ cũng giống với trải nghiệm của trẻ em London hồi những năm 40, nhưng có khác ở chỗ, trẻ em Hà Nội phải chịu đựng lâu hơn – suốt từ 1964 đến 1973, và gặp nhiều cái khó hơn trong thời chiến.
Gia đình tôi gốc gác ở Đồng Hới, một thị xã nhỏ ở miền Trung Việt Nam, một thị xã ngập tràn hoa thơm cỏ ngát, đến độ người ta gọi nó là “Thị xã Hoa Hồng”. Năm 1946, phần lớn đại gia đình nhà tôi chuyển lên phía Bắc và sống ở Nghệ An, đó là cũng là nơi tôi được sinh ra vào năm 1952. Đến năm 1954, sau khi Hiệp định Genève được kí kết, cha mẹ tôi chuyển về sống ở Hà Nội. Ngay từ những ngày đầu ném bom, Đồng Hới đã gần như biến thành bình địa, sót lại sau cuộc oanh tạc chỉ là những bức tường nhà thờ đã cháy đen và những tháp nước dang dở. Bom và pháo kích từ Hạm đội 7 Hoa Kỳ đã cướp đi sinh mạng 32 người trong đại gia đình nhà tôi. Tính riêng năm 65.
Nhưng trong kí ức của tôi, mặc cho những hy sinh và mất mát, nhân dân dường như không nản chí hay suy sụp. Trái với những tính toán của Lầu Năm góc, những trận dội bom chỉ càng khiến những người như tôi có thêm tinh thần nhập ngũ. Tôi đã đi đăng kí nhập ngũ hồi tháng 9 năm 69, chỉ vài tháng trước ngày sinh nhật 18 tuổi. Vì cớ gì? Vì tôi muốn đánh đuổi ngoại xâm, sống là một người có danh dự, là một công dân tốt. Cha mẹ tôi khi ấy chỉ mong tôi học cao lên, tất nhiên, đã từ chối kí vào bản cam kết cho phép đứa con trai 17 tuổi ra tiền tuyến. Nhưng tôi vô cùng quyết tâm, đấu tranh tư tưởng cho đến khi họ chấp thuận.
Mẹ tôi đã cầm bút kí giấy trong hai hàng nước mắt.
—
Sau chừng 5 năm, chiến tranh đã dần lên tới đỉnh điểm. Năm 1969, mặc dù Trung ương vẫn liên tục cổ động và tuyên truyền, thực lòng người Hà Nội nào cũng đoán biết chiến trường trong kia khốc liệt vô cùng. Khi tôi đi, tôi cũng biết rõ phận mình. Tôi không dũng cảm, nhanh nhẹn hay nhanh trí hơn người. Tôi không phải một chiến binh bẩm sinh. Tôi biết rõ cơ hội sống là rất thấp. Bỏ qua hết những điều ấy, cho dù tôi có làm sao đi chăng nữa, nhân dân Việt Nam sẽ đánh bại mọi kẻ xâm lược và thống nhất đất nước. Bọn chúng tôi có thể không có chiến tích “lững lẫy năm châu” như hồi Điện Biên Phủ của cha ông, vì rõ ràng quân Mỹ mạnh hơn quân Pháp rất nhiều, nhưng tôi đã tin, những đồng chí của tôi cũng đã tin, rằng đến cuối nước Mỹ sẽ phải bỏ cuộc và rút chạy – như lời mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn khẳng định.
Tháng 1/1970, sau 3 tháng ở trại huấn luyện, học cách dùng AK47, súng phóng lựu, lựu đạn cầm tay, đơn vị tôi bắt đầu hành quân đến Tây Nguyên theo đường mòn Hồ Chí Minh. Đến tháng 5 tới được Kon Tum, bọn tôi lại được chia vào những đơn vị khác nhau. Tôi thì ở Sư đoàn 10, Tiểu đoàn 2, trực thuộc Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3. (Năm 1973, tôi được điều sang Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 24 và ở đó cho đến hết cuộc chiến). Kẻ thù mà chúng tôi đối mặt khi ở Tây Nguyên là Sư đoàn 22, 23 của Quân lực VNCH, cùng với Sư đoàn Bộ Binh số 4 và Sự đoàn Không kỵ số 1 của Hoa Kỳ.
Năm 1970, khi Richard Nixon tiến hành “Việt Nam hoá chiến tranh” – cái mà dư luận cho rằng “chỉ thay đổi màu da của xác lính”, nước Mỹ đã và đang rút lính của mình về nước. Thế nhưng cả cái ác liệt của chiến tranh và sự hiện diện của người Mỹ trên chiến trường vẫn không hề giảm sút. Mỗi phút, mỗi giờ trôi qua, họ vẫn lái những chiếc B52 vẫn bay trên đầu người cả chục cây số, vẫn bắn những loạt pháo 105, 155, 175 từ cách xa cả dặm. Chỉ một đợt ném bom bằng B52 hoặc một đợt pháo kích cũng có thể san phẳng một ngọn núi, lấp sông thành bùn, biến rừng cây thành cát bụi.
Tôi là một lính trinh sát và ít khi phải đối đầu trực diện với lính Mỹ. Thay vào đó, tôi cẩn thận theo dõi họ qua những ống nhòm. Nhưng cũng có lúc tôi đã nhìn thấy họ từ khoảng cách rất gần – thấy những lính Mỹ từ cửa những chiếc trực thăng Cobras và Hueys, xả những loạt đạn súng máy liên hồi. Những người lính liều lĩnh và lão luyện đó thường bay rất gần mặt đất, tới nỗi bọn tôi có thể thấy rõ khuôn mặt, màu tóc, đôi khi là cả màu của đôi mắt.
Lần cuối cùng tôi nhìn thấy một đội lính Mỹ ở tầm gần là vào một sáng tháng Tư năm 1971, gần Đèo An Khê. Tôi đã thấy một trung đội đi tuần trên Đường 19. Nhóm lính trông rất thoải mái, không quá phòng bị, đi theo một hàng xung quanh căn cứ. Họ không hề biết có 3 trinh sát đang theo dõi nhất cử nhất động từ cách đó cả trăm mét, và cũng không biết có một đơn vị quân Bắc VIệt đang mai phục ở ngã rẽ trước mặt.
Tới ngày hôm nay tôi vẫn còn rõ rảnh tượng ấy, như thể từng khuôn mặt đang ở ngay trước mắt mình. Tôi đặc biệt nhớ có một anh lính khoác trên lưng radio PRC-25, không hiểu vì cớ gì anh ta không đi sát chỉ huy mà lại xuống cuối hàng. Anh lính trông rất thản nhiên, không áo chống đạn, không mũ, không mang M-16 hay súng phóng lựu, chỉ có bộ radio phía sau mà thôi. Từ ống nhóm, tôi thấy anh ta có mái tóc nâu cắt ngắn, râu ria nhẵn nhụi, đang nhai kẹo, có lẽ là kẹo cao su, vừa đi vừa đá vỏ lon trên đường. Cho tới 15 phút sau, tiếng súng nổ báo hiệu anh ta cùng trung đội đã đi vào chỗ mai phục của quân chúng tôi.
Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với anh lính thông tin ấy, liệu anh ta có sống sót không. Năm 1998, trong chuyến đi đầu tiên tới Mỹ, mỗi khi tôi tới thăm một ngôi trường trung học hay đại học và nhìn thấy những học sinh trẻ tuổi ngoài những sảnh chờ, bất giác tôi lại liên tưởng tới khuôn mặt anh lính kia, lại thoáng nghe thấy tiếng đá vỏ lon trên đường.
Người lính trẻ vừa đi vừa đá tung những thứ trên đường phố, giống như bao đứa trẻ chơi đùa trên đường tan học về nhà.
—
Đã rất lâu rồi, nhưng tôi vẫn hay gặp ác mộng về chiến trận khi xưa. Tôi vẫn nghe thấy tiếng gió hút của hàng trăm trái bom rải thảm, tiếng pháo gầm thét, tiếng vỗ của những cánh trực thăng. Tôi vẫn thấy những trung đội lính Hải quân mặc áo chống đạn nhảy ra từ trực thăng Chinook và xả đạn M-16.
Tệ nhất có lẽ là những cơn ác mộng về dioxin. Mùa xuân năm 71, khi đóng quân ở Kon Tum, chúng tôi liên tục chịu những trận xả Chất độc màu Da cam. Tôi không biết những người lính bay trên C-123 Caribou có biết thứ họ đang xả là chất độc hay không, hay chỉ những nhà sản xuất mới hiểu rõ. Nhưng chúng tôi thì có biết, biết rõ thứ vũ khí chết người ấy. Mỗi một đợt Caribou bay qua, trời tối đen lại, trút xuống những trận mưa dày màu trắng đục. Những tán rừng vỡ vụn, đổ rạp xuống. Lá hoa, cây cỏ cứ thế héo chết. Lá xanh biến thành lá đen, khô quắt lại, cỏ héo úa rồi lụi tàn. Tôi đã chứng kiến không ít cảnh tượng ác liệt trên chiến trường, nhưng cái chết của thiên nhiên luôn là cơn ác mộng thường xuyên và ám ảnh nhất với tâm trí, với giấc ngủ của một cựu chiến binh như tôi.
Lần cuối cùng tôi thấy người Mỹ là những ngày cuối của cuộc chiến. Chúng tôi đã tiến sâu vào Sài Gòn, sát đến sân bay Tân Sơn Nhất. Những người Mỹ tháng 4/1975 cũng giống hồi lần đầu tôi gặp họ vào tháng 8/1964, họ cũng bay trên những chiếc F-4 Phantom cách xa mặt đất. Nhưng lần này, họ đang rút chạy cùng với những công dân Mỹ. Người Mỹ cuối cùng sơ tán khỏi Sài Gòn vào lúc sáng sớm ngày 30/04/1975, và rồi đến gần trưa thì chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Một cuộc chiến dai dẳng tưởng như không bao giờ kết thúc, nay cũng đã đi đến hồi kết.
Đơn vị tôi ở lại Sài Gòn vài ngày rồi trở lại Tây Nguyên vào giữa tháng 5/1975, với nhiệm vụ tìm kiếm những người đồng đội đã tử trận. Sau 6 năm ở miền Nam, cuối cùng tôi cũng về nhà. Tôi không biết về những số liệu thống kê người sống sót, nhưng trong 25 người bạn học cấp 3 nhập ngũ, 11 người đã hy sinh, trong 3 người sống cùng khu tập thể nhập ngũ, tôi là người duy nhất trở về.
—
Giờ đây, sau 23 năm từ khi rời quân ngũ, tôi một lần nữa lại nhìn thấy người Mỹ. Tôi sẽ không quên những buổi gặp gỡ tại hội thảo ở Missoula, cựu chiến binh hai bên Việt-Mỹ ngồi cạnh nhau, thảo luận văn chương và chia sẻ những tác phẩm. Văn học hoá ra có cái phép nhiệm màu thật kì diệu. Ngay ở chính Missoula, tôi đã lần đầu được nghe bài thơ
“The Arrow and the Song” của Henry Wadsworth Longfellow, dịch lại bởi nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Lời thơ của Longfellow thật hoà hợp với tinh thần của buổi gặp gỡ: tình bạn, tình yêu cuộc sống và hoà bình.
Cũng với tinh thần ấy, Giáo sư Phillp West, giám đốc Trung tâm Mansfield ở Đại học Montana cũng đã đọc bản dịch tiếng Anh của “Dạo Chơi Khán Đài” – bài thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. “Tranquil afternoon of spring on pavilion site” – “Light in heart and clear in mind”, những vần thơ Việt cùng chất thơ thế kỉ 19 của Longfellow tưa như một khúc ca hoà trộn những tâm hồn trong buổi gặp gỡ đầy thiện chí. Dù cho không hiểu tiếng Anh, tôi vẫn có thể cảm nhận cái tinh thần ẩn chứa trong từng câu thơ mà những người đồng nghiệp Mỹ đã sáng tác và đọc cho chúng tôi nghe ngày hôm đó.
Khi gặp những cây viết ấy, tôi đã cố gắng nén lại sự kinh ngạc. Anh bạn Kevin Bower ít nói, thân thiện và đang mỉm cười bắt tay tôi lại từng là một người lính súng máy ở Sư đoàn Không kỵ 1 trong trận An Khê? Tiểu thuyết gia Larry Heinemann này từng thuôc Sư đoàn 25 Tia chớp Nhiệt đới, tham chiến ở Tây Ninh? Bruce Weigl viết những vần thơ lãng mạn lại từng ở chiến trường Khe Sanh?
Buổi hội thảo cũng có sự góp mặt của những cựu chiến binh đến từ Montana, họ đến để gặp mặt những cây viết Việt-Mỹ, và để gặp người từng ở bên kia chiến tuyến. Cảnh sát trưởng của Missoula, ông Peter Lawrenson, từng làm cố vấn ở Việt Nam hồi 70-72, đã chào đón tôi như một người bạn cũ khi biết tôi từng là lính Sư đoàn 10 – đơn vị ông đã từng đối mặt khi xưa. Lawrenson đã đưa chúng tôi đi tham quan khắp những nơi như Helena, Great Falls, và Billings.
—
Chúng tôi cũng đã tới đài tưởng niệm những người lính hy sinh ở Việt Nam, lúc đó mới là một tuần kể từ Ngày Tưởng niệm nên vẫn còn rất đông người thăm viếng. Dưới chân các khối đá khắc tên những người lính là những vòng hoa, những tấm thiệp, ảnh chụp lớp trung học, sổ tay, nhật kí, la bàn quân đội, tạp chí Stars and Stripes năm 66, bật lửa Zippo cũ. Có cả một cái bánh sinh nhật với nến còn cháy sáng. Đài tưởng niệm ở Missoula bé hơn nhiều so với ở Washington, nhưng nỗi buồn của những người viếng thăm có lẽ không khác là bao.
Tôi đã gặp một giáo viên nghỉ hưu và nhầm bà ấy với mẹ của một người lính. Người phiên dịch giải thích rằng bà ấy đến từ San Francisco và đã dạy ở Missoula được nhiều năm. Mỗi lần tới khu tưởng niệm này, bà đều ghé thăm Tommy – một học sinh cũ ngày xưa đã nhập ngũ ngay khi mới tốt nghiệp. Mới 18, Tommy đã vào quân đội, sau 6 tháng thì bay nửa vòng Trái Đất tới một nơi xa lạ, mặc lên bộ áo chống đạn, cầm súng và ra chiến trường. Một người lính non trẻ như vậy có thể đã tử trận ngay từ những phút đầu.
Tôi tự hỏi liệu cậu ấy có kịp tổ chức sinh nhật 19 tuổi hay không, hay thậm chí còn chưa kịp thấy cảnh bình minh ở miền đất Việt Nam.
—
Hơn một tháng ở Mỹ, đi từ Montana đến Massachusetts, Rhode Island, New York và Washington. Dù ở đâu thì những buổi gặp mặt cũng luôn được chào đón với sự thân tình. Lòng nhiệt thành của họ đã gợi cho tôi sự đồng cảm với con người và nước Mỹ hôm nay, nhưng cũng một lần nữa khiến tôi trăn trở về cuộc chiến phi nghĩa mà nước Mỹ đã gieo rắc 25 năm về trước.
Tôi đã 46 tuổi và cảm nhận rõ dòng chảy tàn nhẫn của thời gian. Năm tháng qua đi, chiến tranh đã lùi xa và không còn nhiều ảnh hưởng tới nước Mỹ hay Việt Nam, vết thương lớn ấy cũng đã gần như lành sẹo. Nhưng qua chuyến đi này, kí ức tôi chôn chặt bấy lâu nay lại trỗi dậy, rõ ràng và sắc nét hơn bao giờ hết. Tới tận bây giờ, cuộc chiến vẫn còn bám vào đời sống hằng ngày, vào những trang viết của tôi. Giống như bất kì ai từng sống qua thời chiến, tôi cũng mong rằng thế hệ sau sẽ được hoà bình, dù cho giấc mơ ấy là điều bất khả. Là một cây viết và là một cựu chiến binh, tôi biết rõ dưới lớp cỏ xanh hoà bình kia là bao xương máu đã đổ từ những cuộc chiến trước, nhưng tệ hơn là mầm mống cho những cuộc chiến về sau.
Thế hệ chúng tôi đã chiến đấu và học những bài học đắt giá từ đau thương. Tôi băn khoăn, liệu rằng những bài học ấy có được thế hệ sau thấu hiểu? Nếu chúng không hiểu, hay giả như chúng quên đi, liệu rằng chúng ta có mắc những sai lầm cũ, lặp lại những tội ác khi xưa, lại tạo ra những thảm kịch, và rồi lại có thêm những nỗi buồn chiến tranh?