Ai đó có thể giải thích lịch sử xung đột giữa Israel và Palestine được không?

Tôi chưa bao giờ được dạy về nó ở trường và bài viết trên Wikipedia càng khiến tôi thấy khó hiểu hơn. Tại sao họ lại đánh nhau? Tất cả các phương tiện truyền thông đều nói với tôi rằng họ đang đánh nhau.


Xin chào, tôi sẽ cố gắng đưa ra một lời giải thích tương đối ngắn gọn để cố gắng đi sâu vào gốc rễ của vấn đề. Mặc dù mọi người thường mắc sai lầm khi nghĩ rằng cuộc xung đột giữa người Israel và người Palestine đã có từ xa xưa, nhưng bạn không cần phải quay ngược về hàng nghìn năm trước để hiểu nó, tuy vậy bạn cần phải quay ngược lại hơn 100 năm trước, trở về cuối những năm 1800 ở Châu Âu để thực sự hiểu được nguồn gốc của cuộc xung đột Palestine ở Israel. Trong khoảng thời gian này, phần lớn dân số Do Thái trên thế giới sống ở Châu Âu. Trong khi ở nhiều nơi trên Châu Âu, người Do Thái hòa nhập vào xã hội và tương đối thành công, thì về cơ bản ở mọi nơi họ đều bị mặc định coi là “người ngoài” ở Châu Âu – câu hỏi liệu người Do Thái thực sự có thể là một phần của một quốc gia-dân tộc hiện đại hay không (tức là người Do Thái có thể thực sự là người Pháp hoặc người Ba Lan hay không) là một cuộc tranh cãi nảy lửa trên khắp lục địa, đến mức “câu hỏi về người Do Thái” đã trở thành một cụm từ phổ biến, một cách viết tắt được sử dụng để thể hiện sự không chắc chắn về việc liệu người Do Thái có thể trở thành một phần của các quốc gia châu Âu. Ở một số vùng ở Châu Âu, cuộc tranh luận này chủ yếu mang tính chất “trí thức” và ở những nơi khác thì nó trở thành bạo lực xảy ra liên tục. Tuy nhiên ở trên khắp Châu Âu thì người Do Thái phải đối mặt với sự bài trừ, phân biệt đối xử và một tương lai không chắc chắn.
Tất nhiên, người Do Thái không phải là những người thụ động trong cuộc tranh luận này và họ đã thử nhiều cách khác nhau để đảm bảo an toàn và an ninh. RẤT NHIỀU NGƯỜI, đặc biệt là từ Nga và Ba Lan (nơi mà chủ nghĩa bài Do Thái có thể bạo lực hơn và có ít con đường tiếp biến văn hóa hơn trong xã hội thống trị) đã chuyển đến Hoa Kỳ. Những người khác ở Tây Âu thì tiếp biến văn hóa và cố gắng chứng minh lòng trung thành của mình bằng cách tự hào tuyên bố bản sắc dân tộc của họ là bản sắc dân tộc của đất nước nơi họ đang sống và đạo Do Thái chỉ là tôn giáo của họ, hoặc thậm chí là chuyển sang Cơ đốc giáo. Nhiều người trở thành những người theo chủ nghĩa xã hội, hy vọng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ thay thế các quốc gia từ chối họ (một số thậm chí còn dứt khoát trở thành những người theo chủ nghĩa xã hội Do Thái trong một nhóm gọi là Bund, và hy vọng vào một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn duy trì bản sắc dân tộc). Và tất nhiên, một số người thì quay sang tôn giáo, từ chối thế giới trần tục và hy vọng rằng sự cứu chuộc của đấng cứu thế sẽ là sự cứu rỗi của họ.
Đại đa số người Do Thái ở châu Âu đã thử một trong những “giải pháp” trên, tuy nhiên, một nhóm nhỏ người Do Thái lại áp dụng cách tiếp cận khác. Với hy vọng rằng một số hình thức tự trị sẽ là giải pháp cho vấn đề Do Thái, một nhóm nhỏ người Do Thái ở đế quốc Nga đã bắt đầu ủng hộ việc quay trở lại vùng đất mà họ coi là quê hương của tổ tiên họ, Palestine. Tại thời điểm này, Palestine là một phần của Đế chế Ottoman, một đế chế đa sắc tộc, cho đến ít nhất là năm 1908, phần lớn đã bác bỏ khuôn khổ của chủ nghĩa dân tộc châu Âu. Vì vậy, mặc dù dân số Palestine vào thời điểm này chủ yếu là những người nói tiếng Ả Rập, nhưng họ không nhất thiết coi mình là người Ả Rập, mà là người Hồi giáo ở đế chế Ottoman (cũng có người Do Thái và Cơ đốc giáo ở Palestine nhưng ít hơn). Sự mô tả về bản sắc ở Đế chế Ottoman này có gì đó bị đơn giản hóa quá mức, và quan điểm của tôi ở đây không phải để nói rằng một số người sống ở Palestine đã hình thành một loại bản sắc Palestine, chỉ là Palestine vào thời điểm này không phải là một quốc gia độc lập và bản sắc dân tộc không phải là véc tơ chính của bản sắc.
Quay trở lại với những người Do Thái ở Nga, một số người trong số họ bắt đầu chuyển đến Palestine và cố gắng thành lập trang trại. Mặc dù những người Do Thái này về cơ bản đã bị châu Âu từ chối nhưng họ vẫn tiếp thu rất nhiều suy nghĩ của châu Âu về “phương Đông” nên Palestine trong tâm trí họ về cơ bản là trống rỗng và những người sống ở đó chỉ là một nhóm người nguyên thủy sẽ hạnh phúc vì người Do Thái đang mang đến công nghệ vượt trội của Châu Âu, phải không nào!? Tất nhiên là họ sai, ngay lập tức xung đột xảy ra, người Hồi giáo ở Palestine cũng như chính quyền Ottoman rất nghi ngờ (và có lý do chính đáng) về bất kỳ sự xâm nhập nào của người châu Âu, và ngay lập tức có những cuộc giao tranh giữa người Do Thái và người Hồi giáo ở Palestine. Và công nghệ châu Âu đó ư? Hóa ra những người Do Thái đến đây không biết nhiều về việc trồng trọt ở Palestine và cuối cùng phải thuê lao động Ả Rập để hỗ trợ hoạt động nông nghiệp của họ. Điều này chỉ làm tăng thêm xung đột vì những người Do Thái châu Âu này không chỉ là những người mới đến không được chào đón mà còn đột nhiên trở thành ông chủ, tuyển dụng người Ả Rập trong các trang trại trồng trọt quy mô lớn.


Tất cả những điều này nóng lên khá nhiều khi Theodore Herzl, một nhà viết kịch người Vienna đưa ra kết luận tương tự rằng giải pháp cho vấn đề Do Thái sẽ là quyền tự trị. Herzl từng là một trong những người Do Thái ủng hộ việc đồng hóa, và ông là một phần của giới tư sản ở Tây Âu. Tuy nhiên, ông trở nên vỡ mộng với khả năng rằng sự đồng hóa sẽ giải quyết được vấn đề của người Do Thái, và thay vào đó ông đi đến kết luận tiếp theo, rằng để được chấp nhận thì người Do Thái cần có nhà nước tự trị của riêng họ (khi Herzl nói nhà nước, có lẽ ông ấy muốn nói đến một đơn vị bán tự trị bên trong một đế chế lớn hơn, nhưng điều này không quan trọng). Lúc đầu, ông ấy không coi Palestine nhất thiết phải là địa điểm của nhà nước này, tuy nhiên khi ông ấy biết rằng có một nhóm người Do Thái đã định cư ở đó, ông ấy quyết định rằng đó là lựa chọn tốt nhất.
Herzl mang lại nhiều lợi ích cho phong trào đòi quyền tự trị của người Do Thái ở Palestine (nay được gọi là Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái). Là một người Do Thái đồng hóa ở Tây Âu, ông ta có thể tiếp cận được nhiều tiền hơn. Có lẽ điều quan trọng hơn là ông ta có khả năng tiếp cận các tư tưởng Tây Âu, cụ thể là các tư tưởng về thực dân hoá. Herzl đề xuất giải quyết vấn đề Do Thái thông qua một phong trào chiếm Palestine làm thuộc địa – họ sẽ bảo đảm một hiến chương thuộc địa, thành lập các tổ chức mua bán đất, di chuyển hàng loạt người Do Thái, vv. Trong khi ngày nay cụm từ “thực dân hoá” là một từ bẩn thỉu, nhưng vào thời điểm đó thì Herzl không hề ngại ngùng về điều đó. Khi đề xuất để người Do Thái chiếm đóng Palestine, ông chỉ đơn giản nghĩ rằng người Do Thái sẽ làm những gì mà những người châu Âu tốt bụng khác đang làm trên khắp thế giới. Giống như rất nhiều người châu Âu, ông không có quan niệm rằng người dân bản địa ở Palestine xứng đáng được hưởng loại tự do và quyền kiểm soát vận mệnh của họ giống như người Do Thái. Ông hầu như không bận tâm đến việc đề cập đến những người không phải là người Do Thái ở Palestine, và khi ông làm vậy (điều mà ông đặc biệt làm trong những năm trước khi qua đời), ông tưởng tượng họ sẽ vui vẻ chào đón những người định cư theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái và nền văn minh tiên tiến, trường kỳ theo phong cách Châu Âu mà họ mang đến.
Phong trào của Herzl không phát triển theo đúng như những gì ông tưởng tượng, nhưng ít nhiều thì nó đã xảy ra. Khi người Do Thái bắt đầu đến Palestine với số lượng ngày càng tăng và khi người dân bản địa nhận ra những người Do Thái này có ý định xâm chiếm vùng đất của họ, sự phản kháng của họ ngày càng tăng. Chẳng ích gì khi người Do Thái ở Palestine thường mua đất đang được cho nông dân Ả Rập thuê (những người sẽ lao động trên đất đó qua nhiều thế hệ nhưng không bao giờ sở hữu nó) và sau đó đuổi những người nông dân này đi. Một phần để đối phó với mối đe dọa từ những người định cư Do Thái này, người Ả Rập ở Palestine (cả người Hồi giáo và người theo đạo Cơ đốc) bắt đầu coi mình là một nhóm duy nhất, và bản sắc này trở nên cứng rắn hơn khi xung đột và sự loại trừ với người Do Thái tiếp tục qua nhiều thế hệ.
Cuối cùng thì làn sóng nhập cư, sự căng thẳng và bạo lực của người Do Thái này diễn ra lặp đi lặp lại. Trong lúc đó thì hoàn cảnh của người Do Thái ở Châu Âu ngày càng trở nên tồi tệ hơn trước Thế chiến thứ hai, vì vậy, ngày càng nhiều người Do Thái, ngay cả những người không quan tâm đến Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái chuyển đến Palestine (do người Anh cai trị kể từ Thế chiến I) để thoát khỏi Chủ nghĩa Quốc xã . Những người Ả Rập ở Palestine, những người hầu như không quan tâm đến gã Hitler này, chỉ thấy rằng ngày càng có nhiều người Do Thái đến và phong trào Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái ngày càng mạnh mẽ hơn. Trong khi đó, người Do Thái coi việc tiêu diệt người Do Thái ở châu Âu là bằng chứng cho thấy những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái đã đúng và một quốc gia độc lập có khả năng tự bảo vệ mình là giải pháp thực sự duy nhất cho “vấn đề Do Thái”.
Sau Thế chiến thứ hai, thế giới không biết phải làm gì với những người Do Thái sống sót ở Châu Âu. Họ không thể cứ để những người ấy sống trong các trại dành cho người nội di tản mãi, nhưng họ hầu như vẫn không muốn đưa họ trở về quê hương. Theo một cách nào đó, con đường ít bị cản trở nhất là để họ chuyển đến Palestine. Nhận thấy phần lớn dân số vẫn là người Ả Rập, Liên hợp quốc quyết định chia đất thành hai quốc gia, một dành cho người Ả Rập và một dành cho người Do Thái. Đối với người Do Thái, đây là một chiến thắng ảm đạm (Jerusalem, mà theo truyền thống đối với người Do Thái là khá quan trọng, lại không được trở thành một nhà nước Do Thái – thực khó để chấp nhận). Đối với người dân Ả Rập, điều này có vẻ vô lý, họ đã làm gì để phải chịu điều này? Họ không tham gia chiến tranh, tại sao họ lại bị trừng phạt, và làm thế nào mà các nhà lãnh đạo thế giới lại có thể thảo luận về việc chấm dứt chủ nghĩa thực dân trong khi cũng giao đất đai của họ vào tay thực dân chứ?


Không có gì đáng ngạc nhiên khi một cuộc chiến nổ ra, đầu tiên là giữa hai cộng đồng, nhưng sau đó, khi Israel tuyên bố độc lập, các quốc gia Ả Rập mới thành lập xung quanh, vốn đang tìm cách củng cố vị thế của họ trong thế giới Ả Rập, đã chống trả lại những kẻ họ coi là kẻ xâm lược thuộc địa và cũng bảo vệ cuộc tấn công danh dự của người Ả Rập. Israel giành chiến thắng trong cuộc chiến này và chiếm được nhiều lãnh thổ hơn trong quá trình này (Jordan và Ai Cập chiếm các khu vực ban đầu được dành cho nhà nước Palestine Ả Rập và tuyên bố chủ quyền đối với quốc gia của họ). Để làm như vậy, Israel đã tiến hành một hình thức thanh lọc sắc tộc buộc hàng trăm nghìn người Ả Rập phải rời bỏ nhà cửa của họ. Sau chiến tranh, hòa bình không bao giờ chính thức đạt được và Israel không sẵn lòng chấp nhận những người tị nạn này quay trở lại. Họ tiếp tục coi người Ả Rập ở đất nước này là những người tiềm ẩn nguy hiểm và là mối đe dọa cả về mặt vật chất và nhân khẩu học đối với các quốc gia Do Thái. Các khu vực của quốc gia vẫn còn người Ả Rập sinh sống ban đầu được đặt dưới sự cai trị của quân đội cho đến khi nhà nước có thể tìm ra cách xử lý bọn họ.
19 năm sau, một cuộc chiến khác lại xảy ra và Israel chinh phục các khu vực của Palestine mà Jordan và Ai Cập đã chiếm vào năm 1948. Đột nhiên Israel thấy mình kiểm soát được khu trung tâm trong Kinh thánh, những khu vực có ý nghĩa lịch sử nhất đối với tôn giáo và nói thẳng ra là cả nhiều người Do Thái không thuộc tôn giáo nào. Nhưng đồng thời họ cũng thấy mình đang kiểm soát thêm nhiều người Ả Rập, nhiều người trong số họ đã bị trục xuất khỏi Israel vào năm 1948. Israel chưa bao giờ quyết định phải làm gì với vùng đất này hoặc những người này. Theo một cách nào đó, Israel luôn muốn chiếc bánh của mình và cũng muốn ăn nó, không muốn từ bỏ đất đai nhưng cũng không muốn tiếp nhận những người này làm công dân chính thức. Có những khoảng thời gian mà Israel thể hiện sự sẵn sàng thực lòng trong việc đổi đất lấy hòa bình, nhưng cũng có những hành động đã được đưa ra, chẳng hạn như cho phép người định cư Do Thái di chuyển đến lãnh thổ này, điều đó khiến cho một thỏa thuận như vậy ít có khả năng xảy ra hơn.
Còn rất nhiều điều nữa mà tôi không thể kể hết ở đây, nhưng tôi nghĩ theo một cách nào đó thì đây chính là cốt lõi của nó, sự trớ trêu bi thảm trong cuộc xung đột giữa người Israel và người Palestine. Những người bên trong châu Âu tìm cách kiểm soát vận mệnh của chính họ, nhưng khi làm như vậy sẽ tái tạo một hệ thống áp bức của châu Âu đối với những dân tộc khác. Tôi nghĩ điều quan trọng là cần phải nhấn mạnh rằng điều này không thể tránh khỏi và bi thảm đến mức nào – nhiều người Do Thái ở Châu Âu đã bác bỏ chủ nghĩa Phục quốc Do Thái và thay vào đó tin rằng họ có tương lai ở một Châu Âu đa sắc tộc nhưng cuối cùng lại chết (tất nhiên những người khác đã chuyển đến Mỹ và sống sót). Những người chuyển đến Palestine, ngay cả khi họ không làm như vậy vì lý do ý thức hệ, cuối cùng chắc chắn sẽ tham gia vào việc đàn áp người khác. Và theo một cách nào đó, sự áp bức này là không thể tránh khỏi, chưa bao giờ có một hình thức chủ nghĩa thực dân nhân từ, thậm chí là lành tính, Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái đã được định sẵn là áp bức, tuy nhiên, đối với nhiều người, đó cũng là sự cứu rỗi.
Tái bút: Tôi viết trước giờ đi ngủ nên không dành thời gian chỉnh sửa và sửa lỗi mà tôi chắc là có rất nhiều. Xin lỗi nhé!


Tôi rất cảm kích bài post này, cảm ơn nhé!


Có nguồn nào mà bạn muốn giới thiệu cho người mới biết đến chủ đề này không?


Thật không may, tôi hầu như chỉ biết các nguồn học thuật và thực sự chỉ biết đến lịch sử của Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (tất nhiên là tôi đã đọc các tác phẩm về lịch sử Palestine, nhưng tôi thực sự nghĩ rằng có những người tốt hơn có thể giới thiệu những tác phẩm đó).
Một ngoại lệ đối với cả hai tiêu chuẩn trên là cuốn sách Side by Side: Parallel Histories of Israel-Palestine, cuốn sách đã làm rất tốt trong việc kể lại những câu chuyện của cả những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái và người Palestine về cuộc xung đột theo đúng nghĩa đen là “song song”, với các trang sách ngược nhau kể từng câu chuyện một.
Đối với những cuốn sách học thuật tập trung vào lịch sử chủ nghĩa Phục quốc Do Thái: Benny Morris’s Birth of the Palestinian Refugee Problem và cuốn sách 1948 của ông đều là những tác phẩm kinh điển. Trong những năm cuối đời, ông ấy đã đi hơi xa, nhưng các tác phẩm lịch sử của ông ấy vẫn rất hay.
Arabs and Jews in Ottoman Palestine: Two Worlds Collide của Alan Dowty là một cuốn sách tuyệt vời và rất dễ đọc mà tôi nghĩ nó đã làm rất tốt việc thiết lập nhà nước cho cuộc xung đột.
Year Zero of the Arab-Israeli Conflict 1929 của Hillel Cohen cũng rất nổi tiếng, mặc dù tôi thấy cách viết của ông (cuốn sách không viết theo đường thẳng) rất khó hiểu.
Tất cả đều thuộc loại viết về “nguồn gốc của xung đột” nếu mọi người quan tâm đến các giai đoạn mấu chốt khác, tôi rất sẵn lòng đưa ra những giới thiệu khác.


Đây là một câu hỏi tế nhị, nhưng ngay từ ban đầu người Do Thái đã mất đi quê hương như thế nào? Vào thời Kinh Thánh, Israel là một quốc gia Do Thái phải không? Hoặc không phải là một quốc gia vì đó là một khái niệm tương đối mới, nhưng tôi đoán là bạn hiểu ý tôi. Điều gì đã xảy ra giữa thời điểm đó và những năm 1800 khi hầu hết người Do Thái đến châu Âu?


Trả lời ngắn gọn thì đúng, vào thời Kinh thánh, Israel có rất nhiều người Israel (những người sau này sẽ trở thành người Do Thái), nhưng vùng đất này liên tục bị chinh phục bởi các đế chế mạnh hơn – Babylon, Ba Tư, La Mã, vv. và người Do Thái sống rải rác khắp những đế chế này, đôi khi bằng lựa chọn, và đôi khi bằng vũ lực. Luôn luôn có một cộng đồng người Do Thái ở khu vực trở thành Palestine (tên được đặt trong thời La Mã cai trị) nhưng cuối cùng có nhiều người Do Thái bên ngoài Palestine hơn là ở trong.
Với xu hướng chung của đế chế ở khu vực này, không có gì đáng ngạc nhiên khi người Do Thái sống rải rác. Điều đáng ngạc nhiên là họ vẫn duy trì bản sắc là người Do Thái và có mối quan hệ mật thiết với Palestine bất chấp sự phân tán này.


Palestine (tên được đặt trong thời La Mã cai trị) nhưng cuối cùng có nhiều người Do Thái ở bên ngoài Palestine hơn là ở trong.
Cuộc nổi dậy đầu tiên được gọi là Chiến tranh Do Thái-La Mã lần thứ nhất / Cuộc nổi dậy vĩ đại của người Do Thái / Chiến tranh Do Thái năm 66-73 CN, bắt nguồn từ căng thẳng tôn giáo và từ đó leo thang thành cuộc nổi dậy công khai. Chiến tranh kết thúc sau khi các đồn trú rải rác của phiến quân Do Thái bị truy lùng, nổi tiếng nhất là ở Masada, nhưng diễn ra trước đó vào năm 70 CN với sự tàn phá của Jerusalem, đặc biệt là Đền thờ (ngày nay tọa lạc gần nơi có Dome of the Rock và trên mặt đất được tượng trưng bởi Bức tường Than khóc, là bức tường chắn cho Núi Đền bên ngoài thánh địa). Công trình kiến trúc này là trung tâm của tôn giáo Do Thái và hoạt động giống như các trung tâm thờ cúng hiến tế động vật khác trong thế giới cổ đại. (Đúng vậy, nguồn gốc của các điểm bùng phát xung đột thời hiện đại này đã có từ xa xưa và có lịch sử phức tạp riêng. Qua nhiều thế kỷ, những người cai trị vùng đất này đã rất vui vẻ với thánh địa theo niềm tin của họ, bao gồm cả một nhà nước Do Thái ngắn ngủi đã được xây dựng lại một phần và tiếp tục hiến tế động vật trong thời kỳ người Byzantine bị người Sassanid đẩy lùi, 610-615!)
Quay trở lại thế kỷ thứ nhất, trong khi trấn áp quân nổi dậy ban đầu do Vespasian lãnh đạo, cuộc chiến do con trai ông là Titus phát động khi ông trở thành hoàng đế. Khải hoàn môn ở Quảng trường La Mã đã mô tả chiến thắng của ông được anh trai ông là hoàng đế Domitian dựng lên vào năm 81 CN và mô tả chiến lợi phẩm của ngôi đền, bao gồm cả cây đèn nến bảy nhánh hay còn gọi là menorah, là con dấu nhà nước của Israel hiện đại. (Điều này giống như việc đẩy cao câu chuyện về những người nổi dậy Masada thành những tử đạo sĩ dũng cảm, cho bạn thấy được việc tạo ra huyền thoại hiện đại về Israel từ thời cổ đại như một cách để chống lại sự “thụ động” của người Do Thái ở các vùng đất xa lạ trong nhiều thế kỷ)
Sau khi cuộc nổi dậy bị dập tắt, phần lớn chế độ nô lệ điển hình và sự lưu đày sang Cộng đồng người di cư (bất kỳ nơi nào ngoài Thánh địa truyền thống) xảy ra sau đó, nhưng vẫn có sự hiện diện lớn của người Do Thái. Cuộc nổi dậy lớn tiếp theo được lãnh đạo bởi một Đấng có lẽ là Đấng Mê-si (theo một cách giải thích mang tính hiếu chiến hơn thì kand được đặt theo tên ông ta, Bar Kochba, xảy ra vào năm 132–136 CN. Cuộc nổi dậy này dẫn đến việc tàn sát hàng loạt và thanh lọc sắc tộc gây tranh cãi và người Do Thái bị cấm vào Jerusalem ban đầu. Cuối cùng, vào một thời điểm nào đó không lâu sau khi tỉnh này được đổi tên thành Syria Palestina, nối nó với tỉnh lân cận và sử dụng một cái tên cổ (và không phải Do Thái) để chỉ người Philistine. Sự hiện diện của người Do Thái tăng giảm theo năm tháng và nhìn chung được người Hồi giáo chấp nhận hơn là người theo đạo Cơ đốc, nhưng phải đến những năm trước khi Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái nổi lên ở một xuất phát điểm thấp, và một vùng dân cư nghèo khổ chỉ có vài nghìn người, với hy vọng khôi phục bị giới hạn không chỉ là một đấng cứu thế chinh phục mà là ngày tận thế, ngày tận thế theo phong cách Do Thái.
Nguồn thông tin nổi tiếng nhất (mặc dù gây tranh cãi) về cuộc chiến thứ nhất là nhà văn người Do Thái gốc La Mã Josephus, trong cuốn sách về chủ đề này, “”The Wars of the Jews”. Tại thời điểm này nó là tỉnh Judea của La Mã (hoặc Iudaea). Nhà văn La Mã Cassius Dio đã ghi lại cuộc nổi dậy của Bar Kochba trong Historia Romana.


Tôi thực sự đánh giá cao bài đăng này và việc dành chút thời gian suy ngẫm nó đã giúp tôi học được rất nhiều điều. Cảm ơn bạn! Tôi có một số câu hỏi tiếp theo nếu điều đó ổn. Tôi nhận ra chúng xuất phát từ thành kiến của người Do Thái nhưng tôi cảm thấy nếu tôi phớt lờ mong muốn được hỏi thì tôi sẽ không thực sự học được:
Quay trở lại với những người Do Thái ở Nga, một số người trong số họ bắt đầu chuyển đến Palestine và cố gắng thành lập trang trại.
Những người Do Thái này có phải là những người bị trục xuấtchạy trốn khỏi cuộc tàn sát không?
trong tâm trí họ về cơ bản là trống rỗng và những người sống ở đó chỉ là một nhóm người nguyên thủy sẽ hạnh phúc vì người Do Thái đang mang đến công nghệ vượt trội của Châu Âu, phải không nào!?
những người Do Thái châu Âu này không chỉ là những người mới đến không được chào đón mà còn đột nhiên trở thành ông chủ, tuyển dụng người Ả Rập trong các trang trại trồng trọt quy mô lớn.
Chẳng phải những trang trại trồng trọt quy mô lớn này đã tồn tại trước khi người Do Thái định cư dưới thời các lãnh chúa Ả Rập sao?
Trong khi ngày nay cụm từ “thực dân hoá” là một từ bẩn thỉu, nhưng vào thời điểm đó thì Herzl không hề ngại ngùng về điều đó. Khi đề xuất để người Do Thái chiếm đóng Palestine, ông chỉ đơn giản nghĩ rằng người Do Thái sẽ làm những gì mà những người châu Âu tốt bụng khác đang làm trên khắp thế giới.
Herzl có bị hạn chế bởi ngôn ngữ thời đó không, hay chúng ta có thể nói một cách an toàn rằng ông ấy muốn nói đến việc thuộc địa hóa với tất cả những thứ khác vì sự lựa chọn từ ngữ của ông ấy (trái ngược với sự di cư vĩnh viễn hoặc di cư tạm thời)? Và liệu “những người châu Âu tốt bụng” có phải là một cách công bằng để miêu tả suy nghĩ của Herzl khi xem xét nền tảng của Chủ nghĩa phục quốc Do Thái của ông là việc thiếu an ninh và các quyền mà châu Âu đưa ra?
Giống như rất nhiều người châu Âu, ông không có quan niệm rằng người dân bản địa ở Palestine xứng đáng được hưởng loại tự do và quyền kiểm soát vận mệnh của họ giống như người Do Thái.
Điều này có vẻ giống như một tuyên bố có ẩn ý ngầm? Điều gì sẽ xảy ra nếu ông ấy tin rằng mật độ người Do Thái và người Palestine không loại trừ lẫn nhau? Có lẽ tôi cần đọc thêm về Herzl thay vì đặt ra những câu hỏi mơ hồ này, tôi xin lỗi.
Israel giành chiến thắng trong cuộc chiến này và chiếm được nhiều lãnh thổ hơn trong quá trình này (Jordan và Ai Cập chiếm các khu vực ban đầu được dành cho nhà nước Palestine Ả Rập và tuyên bố chủ quyền đối với quốc gia của họ). Để làm như vậy, Israel đã tiến hành một hình thức thanh lọc sắc tộc buộc hàng trăm nghìn người Ả Rập phải rời bỏ nhà cửa của họ. Sau chiến tranh, hòa bình không bao giờ chính thức đạt được và Israel không sẵn lòng chấp nhận những người tị nạn này quay trở lại.
Chủ đề đầu tiên trong Câu hỏi thường gặp về Israel-Palestine tại đây có giải thích chi tiết về Nakba, nhưng bài đăng này hiện đã được 7 năm. Cụ thể, OP dường như gợi ý rằng Nakba không hoàn toàn đủ tiêu chuẩn là thanh lọc sắc tộc theo định nghĩa do ICTY (Tòa án Hình sự Quốc tế dành cho Nam Tư cũ) và một tòa án tương tự ở Rwanda đặt ra. Tôi tò mò liệu bạn đã đọc chuỗi Câu hỏi thường gặp chưa và ý kiến của bạn về phân tích đó là gì? Mọi thứ có thay đổi nhiều về mặt học thuật trong 7 năm kể từ khi nó được viết không?
Sau chiến tranh, hòa bình không bao giờ chính thức đạt được và Israel không sẵn lòng chấp nhận những người tị nạn này quay trở lại.
Việc phản đối việc tiếp nhận người tị nạn có bị ảnh hưởng bởi thực tế là không có hòa bình chính thức hay điều này không quan trọng lắm? Tôi cũng đã nghe những câu chuyện kể rằng những người tị nạn Palestine đã phản đối việc quay trở lại Israel vì nước này sẽ công nhận nhà nước Israel? Có phải tất cả những công dân không phải là người Do Thái (?) ở Israel đều là hậu duệ của những người Ả Rập đã ở lại?
sự trớ trêu bi thảm trong cuộc xung đột giữa người Israel và người Palestine. Những người bên trong châu Âu tìm cách kiểm soát vận mệnh của chính họ, nhưng khi làm như vậy sẽ tái tạo một hệ thống áp bức của châu Âu đối với những dân tộc khác.
Sự trớ trêu ở đây có thể thấy rõ được. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể đổ lỗi cho Israel một cách thẳng thắn vì đã tái tạo hệ thống áp bức của châu Âu khi các quốc gia châu Âu không phải Do Thái cũng là tác nhân chính trong toàn bộ quá trình?
Một lần nữa, cảm ơn bạn!


theo thứ tự nhé:
Những người Do Thái này có phải là những người bị trục xuất, chạy trốn khỏi cuộc tàn sát không?
Đúng, nhưng cũng có lý do nghèo đói nữa, đây không phải là thời điểm và nơi tuyệt vời để trở thành một người Do Thái.
Có một bài viết tuyệt vời của Aziza Khazzoom tên là “the Great Chain of Orientalism” thảo luận về vấn đề này (nó cũng thảo luận về chủ nghĩa phương Đông nội bộ Do Thái) Tác phẩm của Derrik Penslar, (Ông có rất nhiều bài báo và sách, tôi đã trích dẫn một trong những cuốn sách của ông ở trên, Zionism and Technocracy) là công cụ xác định tầm quan trọng của bối cảnh châu Âu đối với việc nghiên cứu Chủ nghĩa phục quốc Do Thái, điều này cũng rất hữu ích. The Jewish Radical Right: Revisionist Zionism and its Ideological Legacy của Eran Kaplan thiết lập mối liên kết tương tự với Chủ nghĩa phục quốc Do Thái theo chủ nghĩa xét lại (cánh hữu).
Điều gì sẽ xảy ra nếu ông ấy [Herzl] tin rằng mật độ người Do Thái và người Palestine không loại trừ lẫn nhau?
Đó là một câu hỏi hay, và tôi nghĩ đây hoàn toàn là điều ông tin tưởng, trong tác phẩm cuối cùng trước khi qua đời Altneuland, Herzl mô tả một “xã hội mới” cực kỳ tiên tiến mang lại những lợi ích đáng kinh ngạc cho cả người Do Thái lẫn người Ả Rập.
Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng chỉ vì ông tin rằng Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái sẽ tạo ra một xã hội có lợi cho cả người Do Thái và người Ả Rập có nghĩa rằng ông không đối xử gia trưởng với người Ả Rập và bỏ qua mong muốn kiểm soát vận mệnh của chính mình. Các dự án thuộc địa (đặc biệt là trong ví dụ của Pháp) thường tưởng tượng mình đang “giúp đỡ” người dân bản địa bằng cách đưa ra “nền văn minh”, “sự phát triển” hoặc “tiến bộ”. Thực tế là Herzl đã dành nhiều năm trong cuộc đời mình để suy nghĩ về Palestine và làm việc cho một Nhà nước Do Thái ở đó, nhưng chưa bao giờ hoặc ít nhất là cực kỳ hiếm khi gặp những người Ả Rập sống ở đó. Ngoài ra, trong chuyến thăm đầu tiên và duy nhất tới Palestine (mặc dù đã dành nhiều năm cho dự án tự trị của người Do Thái ở Palestine), Herzl đã ngạc nhiên khi nhận thấy có bao nhiêu người Ả Rập sống ở đó. Tôi không nghĩ bất kỳ điều nào trong số này khiến Herzl trở nên “ác quỷ” hay bất cứ điều gì, nó chỉ là sản phẩm của một môi trường mà hầu như không ai có thể quan niệm rằng các dân tộc “nguyên thủy” ngang hàng với họ.
Tôi tò mò liệu bạn đã đọc FAQ và ý kiến của bạn về phân tích đó là gì? Mọi thứ có thay đổi nhiều về mặt học thuật trong 7 năm kể từ khi nó được viết không?
Tôi chưa đọc FAQ và tôi không phải là chuyên gia về định nghĩa pháp lý về thanh lọc sắc tộc. Mặc dù tôi sẵn sàng thử sức với các chủ đề khác nhưng tôi không phải là chuyên gia hoàn toàn (như cuộc thảo luận của tôi về các hoạt động nông nghiệp ở Palestine ở những chỗ khác trong thread này), tôi nghĩ rằng tôi đã vạch ra ranh giới ở đây. Tôi nghĩ có điều gì đó mất nhân tính đối với một người không hoàn toàn biết họ đang nói gì khi tranh luận xem một thảm kịch như Nakba có phải là thanh lọc sắc tộc hay không. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là phải nhận ra rằng chắc chắn không có một chỉ thị trung ương hay chính sách thống nhất nào về việc trục xuất, nhưng điều đó tất nhiên không có nghĩa là những gì đã xảy ra không phải là một cuộc thanh lọc sắc tộc.
Việc phản đối việc tiếp nhận người tị nạn có bị ảnh hưởng bởi thực tế là không có hòa bình chính thức không hay điều này không quan trọng lắm? Tôi cũng đã nghe những câu chuyện kể rằng những người tị nạn Palestine đã phản đối việc quay trở lại Israel vì nước này sẽ công nhận nhà nước Israel? Có phải tất cả những công dân không phải là người Do Thái (?) ở Israel đều là hậu duệ của những người Ả Rập đã ở lại?
Tôi không nghĩ việc không có hòa bình chính thức không quan trọng lắm, nhưng nó đã tạo ra một vỏ bọc tốt đẹp cho chính phủ Israel. Trong các cuộc đàm phán bí mật với Mỹ, Israel thường nói rằng họ sẵn sàng chấp nhận, trên lý thuyết, chấp nhận 100.000 người tị nạn quay trở lại theo một thỏa thuận nào đó. Có thể trong một đề nghị hòa bình thực sự, con số đó có thể đã tăng lên, nhưng tôi nghĩ nó khó có thể cao hơn nhiều mức đó.
Hai câu hỏi tiếp theo của bạn phức tạp hơn. Chắc chắn có một quan điểm của người Palestine mà nhiều người cho rằng đó là tránh “bình thường hóa” với Israel, tôi chỉ không chắc bối cảnh sẽ tồn tại ở đâu khi điều này không chỉ là một tình thế tiến thoái lưỡng nan giả định. Nhiều người Ả Rập đã cố gắng (và một số đã thành công) vượt biên giới và trở về nhà của họ sau chiến tranh, ngay cả khi điều đó có nghĩa là phải sống ở nhà nước Do Thái. Còn nếu họ đều là hậu duệ của những người Ả Rập ở lại thì sao? Đó thực sự là một câu hỏi hay; chắc chắn có một số trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn như những người Ả Rập theo đạo Cơ đốc ở Lebanon đã liên minh với Israel trong cuộc chiến ở Lebanon và được đưa trở lại Israel khi quân đội rút lui. Ngoài ra, cư dân Đông Jerusalem đã được đề nghị nộp đơn xin quốc tịch sau khi Israel sáp nhập nó, một lời đề nghị chỉ có một số ít chấp nhận và còn có ít người hơn nữa được chấp thuận. Tôi đoán có một số trường hợp ngoại lệ khác như thế, nhưng phần lớn họ là hậu duệ của những người ở lại năm 48.
Nhưng làm thế nào chúng ta có thể đổ lỗi cho Israel một cách thẳng thắn vì đã tái tạo hệ thống áp bức của châu Âu khi các quốc gia châu Âu không phải Do Thái cũng là tác nhân chính trong toàn bộ quá trình?
Tôi nghĩ đây là một câu hỏi về mặt đạo đức, nhưng câu trả lời cá nhân của tôi là không. Tôi đã cố gắng diễn đạt câu trả lời của mình theo cách thừa nhận tính không thể tránh khỏi của xung đột vốn có trong Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, đồng thời thừa nhận sự nghèo nàn về các lựa chọn dành cho người Do Thái ở Châu Âu. Tôi thực sự nghĩ rằng việc các nhà sử học chuyển trọng tâm, ít nhất ở một mức độ nào đó, sang các tác nhân không phải người Do Thái, không phải người Ả Rập, có thể mang lại những cơ hội hữu ích trong việc tận dụng nghiên cứu lịch sử như một công cụ để tưởng tượng về một tương lai công bằng hơn.

Ảnh minh hoạ

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *