??̀? ???̂̉? ???̂? ??̣̂? ??̣?? ??̛̉

???̛?̛?? ? – ???̀?? ??́? ??̛ ??̃?

[KÌ I – MỞ ĐẦU CỦA ĐẾ CHẾ MÔNG CỔ]

Suốt gần 10 thế kỉ nay, cả thế giới đều coi Thành Cát Tư Hãn như một đại họa giáng xuống nhân loại, đồng thời phải cúi đầu thán phục ông vì tài lãnh đạo. Thoáng nghe tên Thành Cát Tư Hãn, người ta lại nhìn thấy hình ảnh dân du mục miền đồng cỏ cưỡi ngựa tràn khắp tứ phương, tung hoành ngang dọc suốt hàng thế kỉ. Trước ông không có nhà chinh phục nào gây được uy vũ làm kinh hoàng cả thiên hạ, đến nỗi khi dân Âu Châu nghe đến tên Thành-Cát-Tư-Hãn đều hãi hùng cho là “ngày tận thế đã tới rồi!”. Ông áp dụng triệt để lối khủng bố để cai trị và thẳng tay tàn sát để ngăn ngừa những cuộc quật khởi chống đối. Những gì mà Âu Châu đã lên án Attila và Ấn Độ đã lên án Mihirakonia thật chẳng thấm vào đâu so với những cuộc tàn phá của Thành-Cát-Tư-Hãn ở những nước bại trận như Trung Quốc, Đại Hồi…

Ông là một nhà quân sự lỗi lạc và quan trọng của lịch sử thế giới, ông được người Mông Cổ dành cho sự tôn trọng cao nhất, như là một vị lãnh đạo đã loại bỏ hàng thế kỷ của các cuộc giao tranh, mang lại sự thống nhất cho các bộ lạc Mông Cổ. Cháu nội của ông và là người kế tục sau này, Khả hãn Hốt Tất Liệt đã thiết lập ra triều đại Nhà Nguyên của Trung Quốc. Tháng 10 năm Chí Nguyên thứ 3 (1266), Hốt Tất Liệt đã truy tôn Thành Cát Tư Hãn miếu hiệu là Thái Tổ, nên ông còn được gọi là Nguyên Thái Tổ. Thụy hiệu khi đó truy tôn là Thánh Vũ Hoàng đế. Tới năm Chí Đại thứ 2 (1309), Nguyên Vũ Tông Hải Sơn gia thụy thành Pháp Thiên Khải Vận. Từ đó thụy hiệu của ông trở thành Pháp Thiên Khải Vận Thánh Vũ Hoàng đế. Các cuộc chinh phạt của Thành Cát Tư Hãn trên khắp khu vực Á-Âu để bành trướng lãnh thổ đã đem lại sự thống nhất và phát triển giao lưu buôn bán, đồng thời ông cũng thi hành chính sách tự do tôn giáo, cho phép tín đồ mọi tôn giáo được tự do hành đạo. Tuy nhiên, Thành Cát Tư Hãn cũng nổi tiếng bởi sự tàn bạo với những người phản kháng. Thành Cát Tư Hãn bị nhiều dân tộc coi là hiện thân của sự tàn bạo, nhất là từ Trung Á, Đông Âu và Trung Đông (là những nơi đã từng bị quân đội Mông Cổ thảm sát hàng loạt). Theo một số ước tính, đội quân của Thành Cát Tư Hãn đã giết hơn 40 triệu người tại các lãnh thổ mà họ xâm chiếm.
Về mặt chính trị, Thành-Cát-Tư-Hãn không phải là một nhà lãnh đạo đã dại
dột ngỏanh mặt trước những kinh nghiệm quí báu của các dân tộc văn minh. Trong số những cận thần của ông người ta thấy có nhiều cố vấn ngoại quốc như Tatatonga người Thổ phồn, Mahmoud Yalawatch người Hồi, Chu Thai người Khiết Đan… và nhờ biết nghe lời phải của các cố vấn ấy mà guồng máy cai trị của ông tiến dần đến chỗ biết dùng văn tự, biết lập thuế má và giảm bớt những cuộc đàn áp man rợ. Về mặt quân sự, người ta đã bình luận rất nhiều về chiến lược, chiến thuật
của Thành-Cát-Tư-Hãn. Có người đã sánh với chiến lược của Frédéric II, hoặc của Nã-Phá-Luân. Và gần đây cố Đại tướng Mac Arthur của Hoa Kỳ đã xác nhận thêm: “Tất cả những nguyên tắc về chiến lược của Thành-CátTư-Hãn ở thời nào cũng là một kho tàng vô cùng quí giá cho các binh gia. Không có binh thư chiến sách nào rõ ràng sáng sủa hơn những trang chiến sử của Thành-Cát-Tư-Hãn”.
Có rất nhiều nhân vật nổi tiếng được cho là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, là những kẻ đi xâm chiếm nhiều đất đai về tay mình như Timur Lenk, kẻ chinh phục dân Thổ Nhĩ Kỳ, Babur, người sáng lập ra đế quốc Mogul trong lịch sử Ấn Độ. Những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn còn tiếp tục cai trị Mông Cổ đến thế kỷ XVII cho đến khi nó bị Đế quốc Thanhcủa người Mãn Châu thống trị lại.

I. Sơ lược về tiểu sử ông.

[THÂN THẾ]

Nguyên tên ông là Temüjin ( Тэмүүжин, Thiết Mộc Chân), sinh năm 1162 (dù có nguồn cho rằng ông sinh năm 1155), người của gia tộc Borjigin(Боржигин, Bột Nhi Chỉ Cân). Ông là con trai cả của Yesügei, một thủ lĩnh của bộ tộc Kiyad (乞颜, Khất Nhan) với bà Hoelun (Ha Ngạch Lôn, Ha Ngạch Luân hay Өэлүн) từ bộ lạc Olkhunut (Oát Lặc Hốt Nột/Олхуноуд). Vào thời điểm bà Hoelun đang mang thai ông, một thủ lĩnh rất dũng cảm người Tatar đã bị cha ông đánh bại tên là Temüjin-üge (Thiết Mộc Chân Ngột Cách). Đó có thể là lí do khả dĩ nhất cho nguồn gốc tên gọi Temüjin của ông. Trong tiếng Mông Cổ, Temüjin có nghĩa là “sắt”.

Temüjin có 3 em trai là Jochi Qasar (Truật Xích Cáp Tát Nhi), Khajiun (Hợp Xích Ôn), Temüge (Thiết Mộc Ca Oát Xích Cân) và một em gái là Temülen (Thiết Mộc Luân), cùng hai anh/em cùng cha khác mẹ khác là Bekhter(Biệt Khắc Thiếp Nhi) và Belgutei (Biệt Lặc Cổ Đài) do vợ thứ của Yesügei là Sujigil sinh ra.
Từ nhỏ, Temüjin là cậu bé khá nhút nhát và sợ chó (theo lời kể của chính cha ông). Khi Temüjin lên 9 tuổi, Yesügei đưa ông về bộ lạc bên ngoại Olkhunut để hỏi con gái của một người họ hàng làm vợ tương lai cho ông. Khi đi đến núi Jiqurqu, đoàn của Yesügei gặp một người họ hàng thuộc tộc Onggirat (Hoằng Cát Lạt) là Dei Sejen. Ông Dei Sejen ngay lập tức quý mến cậu bé Temüjin và kể cho Yesügei về một giấc mơ đêm trước của ông ta rằng một con đại bàng toàn thân màu trắng đã cắp mặt trời và mặt trăng để đưa cho ông ta, khiến Dei Sejen tin rằng Temüjin đến gặp ông ta là một điềm lành, liền hỏi cưới con gái mình là Börte (Bột Nhi Thiếp) cho Temüjin nhưng yêu cầu Yesügei để cậu bé ở rể cho đến khi đủ 12 tuổi. Yesügei đồng ý và quay về một mình

[Cái chết của cha ông và cuộc sống đầy cơ cực]

Trên đường trở về, Yesügei bị đầu độc bởi bộ lạc Tatar láng giềng và qua đời ngay sau đó. Biết tin dữ, Temüjin được Dei Sejen cho phép quay về nhà để tiếp quản chức thủ lĩnh bộ lạc Kiyat, nhưng với điều kiện cậu phải quay về ngay sau khi chôn cất cha xong. Tuy nhiên, sự trở về của Temüjin không được những thành viên bộ lạc chấp nhận do sự bất đồng về quyền lực và quyền lợi kinh tế, nên khi tất cả họ di chuyển xuống hạ lưu sông Onon đã bỏ lại gia đình cậu đơn độc kiếm sống.
Trong những năm sau đó, đại gia đình Temüjin sống một cuộc đời du cư nghèo khó, sống chủ yếu nhờ câu cá, chài lưới. Trong một lần đi săn bắn, Temüjin cùng em trai Qasar đã dùng cung bắn chết người anh/em cùng cha khác mẹ là Beghter, khi bị Beghter trộm mất mẻ cá mà họ vất vả thu được, khiến bà Hoelun tức giận quở mắng anh em ông nhưng cũng bắt đầu dạy ông nhiều bài học từ sống sót trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Mông Cổ tới sự cần thiết của liên minh với những người khác, những bài học này đã hình thành nên sự hiểu biết của ông trong những năm sau này về sự cần thiết của thống nhất.
Năm 16 tuổi, Temüjin tìm về bộ lạc Onggirat để lấy Börte_ người phụ nữ sau được Nhà Nguyên truy phong là Quang Hiến hoàng hậu, làm vợ chính thất và tặng cho vợ một bộ áo lông chồn đen làm của hồi môn. Sau đó, Temüjin đưa Börte trở về nhà chung sống. Nhưng ít lâu sau, bộ tộc Merkits (Miệt Nhi Khất) đã tấn công ayil của Temüjin để trả thù cho việc thủ lĩnh của họ năm xưa bị Yesügei cướp vợ (bà Hoelun) và cướp mất Börte làm chiến lợi phầm. Ông đã đến cầu viện người anh em kết nghĩa (anda) Jamukha (Trát Mộc Hợp)_người sau này trở thành kẻ thù, và người cha đỡ đầu Toghrul (Thoát Lý) của bộ tộc Kerait (Khắc Liệt) để giải thoát cho vợ mình. Việc sinh đứa con đầu lòng là Jochi (Truật Xích) quá sớm đã dẫn đến sự nghi ngờ của ông và Jochi cũng như hậu duệ của ông ta không bao giờ được coi là những người kế vị. Bên cạnh Jochi, Börte còn sinh ra ba người con trai khác là Chagatai (Sát Hợp Đài), Ögedei (Oa Khoát Đài) và Tolui (Đà Lôi )

II. Xã hội Mông Cổ thời bấy giờ.

Người Mông Cổ chính tông chính là một trong những giống dân du mục
ở miền Đông Bắc xứ Ngoại Mông ngày nay, khoảng giữa hai con sông Onon và Kéroulène. Họ thuộc giống da vàng, có nhiều nét đặc biệt: mặt rộng, mũi xẹp, lưỡng
quyền cao, mắt xếch, môi dày, râu cằm thưa, tóc cứng và đen. Vóc người thấp nhưng vạm vỡ, da thẫm, hai chân hơi cong. Nhờ sống giữa một cõi đất cằn cỗi rộng bát ngát, mùa đông lạnh cắt da, mùa hạ nóng thiêu người, họ có sức khỏe và sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai lạ thường. Theo truyền thuyết thì ngày xưa tổ tiên người Mông Cổ bị giống dân Thổ
(Turcs) đánh bại phải lẩn trốn trong vùng núi Erkéné- Kuoun. Cho đến thế kỉ thứ IX họ mới dám xuống núi sinh sống ở lưu vực sông Sélenga và sông Onon. Tù trưởng lúc bấy giờ là Bật-Tê-Si-Nô (Sói Xám) lấy bà Cô-A MaRan có một trai duy nhất tên Ba-Tát-Si. Từ đó xuống mười ba đời nữa đến Đô-Bun: ông này mất sớm để lại bà vợ là A-Lan-Khoát-Nhã, một hôm nhiễm phải một luồng ánh sáng, thụ thai rồi sinh ra ba người con. Người con út tên là Bu-đăng-Sa, là ông tổ của bộ tộc Bọt-di-Dinh, dòng Ni-Ruôn, nổi tiếng là người giản dị. Ông ta thường chỉ cỡi một con lừa ghẻ lở, đuôi còi… Đó là ông tổ tám đời của Thành Cát Tư Hãn.

Thế kỉ thứ XII, dân Mông Cổ chia ra nhiều đoàn trại (Oulouss) độc lập, khi thì đánh lẫn nhau, khi thì họp lại đánh kẻ thù chung là dân Thát Đát. Gia đình của Thành Cát Tư Hãn thuộc tộc Ki-Dát, bộ tộc Bọt-di-Dinh. Từ khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất được Mông Cổ, các sử gia thường chia giống dân này ra làm hai dòng, căn cứ ở chỗ họ thuộc dòng Ki-Dát hay dòng khác.
Dòng thứ nhất gọi là dòng Ni Ruôn, thuộc giống Mông Cổ thuần túy, tự hào là con cháu của thần Ánh Sáng. Dòng thứ hai thuộc giống Durlukin, lai nhiều giống khác. Dòng Niruon gồm có 12 bộ tộc: Taidjigot, Tayitchiout, Taijiout (3 bộ tộc này sống biệt lập ở phía Đông hồ Baikal), Ourou’oud, Mangquoud, Djadjirat, Baroulas, Ba’arin,Dorben (bây giờ gọi là Dorbot), Saldjiout, Quadagin, Katakin. Dòng Dulurkin gồm có 8 bộ tộc: Aroulat, Baya’out, Koroj, Seldu, Ikiras,
Kongirat, Ongirat, Koukourat; những bộ tộc này du mục ở phía Đông Nam, dưới chân núi Nam Khingan cạnh xứ Thát Đát. Còn một bộ lạc nữa tên là Djéliar cũng liệt vào giống Mông Cổ, ở vùng hợp lưu sông Khilok và sông Sélenga hoặc sông Onon, mà có sử gia cho là một bộ lạc Thổ qui phục Mông Cổ rồi bị đồng hóa vào thời đại Anh hùng Cai Đô. Nhưng căn cứ vào cách sinh sống, người ta phân biệt hai thứ bộ lạc: bộ lạc chăn nuôi ở miền đồng cỏ và bộ lạc săn bắn ở miền rừng núi. Vùng biên cảnh Mông Cổ – Tây Bá Lợi Á, nơi người Mông Cổ phát xuất, có hai miền khác biệt rõ rệt: miền rừng ở phía Bắc và miền đồng cỏ hoang vu ở phía Nam. Có nhà sử học cho rằng: “khởi đầu, Mông Cổ là dân rừng núi chớ không phải là dân đồng cỏ, căn cứ vào chỗ họ sớm biết dùng loại xe bốn bánh bằng cây (chariot) và chỉ dùng thùng cây chớ không dùng túi da như người Kagâz ở đồng cỏ”

Xã hội Mông Cổ bấy giờ đã có sự phân chia giai cấp và có 4 giai cấp chính :

1. Hạng quý tộc thống trị, gồm hạng Dũng Sĩ (Bagha tour), Tộc trưởng (Noyan), Hiền nhân (Setchen) và sau này có thêm hạng Thân Vương. Giai cấp này là cao nhất và chỉ huy tất cả giai cấp sau :
2. Hạng chiến sĩ (Nokud)
3. Hạng thường dân (Arad)
4. Hạng nô lệ (Bogoul)

Trong bộ lạc săn bắn vai trò của giai cấp quý tộc không quan trọng như ở bộ lạc du mục. Ở đây hạng pháp sư (Chaman) chi phối mọi mặt trong đời sống; nói chung trong xã hội Mông Cổ pháp sư đóng vai trò thật quan trọng. Sau này chúng ta sẽ thấy vai trò của pháp sư Cốc Chu trong việc dựng đế quốc của Thành Cát Tư Hãn.
Thật ra, việc phân chia hai thứ bộ lạc (săn bắn, du mục) như trên không có tính cách tuyệt đối. Như dân Taidjiout lại là dân săn bắn ở rừng, còn Thành Cát Tư Hãn lại xuất thân ở bộ lạc du mục. Dân săn bắn thường mang một loại guốc bằng cây hoặc xương, hoạt động suốt cả mùa đông ngay trong tiết đại hàn. Họ tìm loại điêu thử (zibeline) và loại chuột màu tro (petit-gris). Dân du mục cũng đi săn, chuyên dùng cung tên và giây thòng lọng tìm loài sơn dương, loài mang mễn. Bọn quý tộc thì luyện chim ưng thả đi bắt các loài khác. Tùy lúc thịnh suy, một bộ lạc có thể bỏ lối sống du mục qua lối sống săn bắn, hoặc ngược lại. Chẳng hạn Thành Cát Tư Hãn lúc thiếu thời, hồi bộ lạc tan rã phải cùng với cha mẹ và em rút vào rừng đi săn bắn sống qua ngày, rồi sau đó mới trở ra gây lại một đàn súc vật.
Những bộ lạc ở rừng nói chung trình độ còn thấp kém, dã man vì họ không hề tiếp xúc với những dân tộc văn minh hơn. Dân du mục tiến bộ hơn nhờ gần gũi với dân Thổ Phồn, dân Khiết Đan, dân Nữ Chân (nước Kim sau này).

A. Trẻ con với người Mông Cổ :

Lên ba tuổi chú bé Mông Cổ mới dứt sữa mẹ và bắt đầu góp mặt vào cuộc sinh hoạt tập thể của bọn nhi đồng trong đoàn trại, không phân biệt con của Khả Hãn hay con của nô lệ. Chúng thích bày những trò chơi táo bạo: trò đấu sức hoặc lập trận giả như người lớn, đấm đá nhau đến đổ máu. Lên năm, chúng đã có thể cất mình một cách gọn gàng lên lưng con ngựa tơ và từ đó thời giờ ở trên lưng ngựa nhiều hơn ở dưới đất, cho nên khi lớn lên hai ống chân của người Mông Cổ đều cong, thành cái vẻ đặc biệt của dân kỵ mã. Cũng từ khoảng năm tuổi, chúng được nhập bọn với người lớn đi đây đó học tập kinh nghiệm và tự tìm lấy cách sống. Mỗi đứa đều có một cây cung vừa với tầm vóc. Vào rừng chúng có thể hạ những con mồi nhỏ rồi chia thịt đồng đều với nhau giữa bọn chúng. Ngoài việc săn bắn, trẻ con có thể đi hái trái, đào củ làm thức ăn thường nhật. Không như thế, lúc đói chúng sẽ cấu xé nhau để giành 1 khúc xương của người lớn ném ra

B. Phụ nữ.

Công việc thường xuyên của các thiếu nữ Mông Cổ là dệt len. Hàng ngày họ đổ vào rừng chặt cây “baronetz” về tước vỏ đánh thành sợi rồi dệt thành những tấm len mà họ thường khoe là “mịn như lông con cừu Scythie”. Theo phong tục, con gái Mông Cổ phải lấy chồng ở một bộ lạc khác: lẽ sống duy nhất của họ là tận tâm phụng sự chồng, sinh con cái, lo việc bếp núc, lúc rảnh rỗi thì chế tạo những đồ đạc lặt vặt trong nhà, vắt sữa bò, sữa ngựa, làmbơ và pho mát cứng (gurud), đóng giày hoặc may vá quần áo. Người đàn bà Mông Cổ là chủ, nắm hết quyền điều khiển trong gia đình. Trong lúc chồng vắng mặt, họ mua bán mọi thứ theo ý muốn. Ngoài việc nội trợ họ còn đảm nhận việc dạy dỗ con cái và sau mỗi trận đánh thường phải túc trực bên cạnh chồng săn sóc vết thương.
Họ cỡi ngựa, bắn cung cũng thật tài, đôi khi phải tham gia chiến trận: núp sau các chiếc xe tải đồ, dùng cung tên chống lại những đợt xung phong của quân nghịch hoặc đánh xáp lá cà trong những trận ác chiến. Các bà vợ chính đều cho chồng lấy vợ lẽ không hề ghen, nhưng các bà vợ nhỏ phải ở dười quyền kiểm soát của họ; họ giữ cả quyền phân phát chiến lợi phẩm của chồng mang về. Nói chung phụ nữ Mông Cổ rất đảm đang, từ việc trong nhà đến việc nặng nhọc bên ngoài. Đổi lại họ được trọng nể và được bảo vệ. Tục ngữ Mông Cổ có câu: “Người ta biết đức tính của đàn ông qua người vợ của họ” và luật Mông Cổ phạt rất nặng những người đánh vợ, xử tử hình những kẻ xâm phạm tiết trinh của một thiếu nữ.

C. Mái lều hình tròn.

Đời sống du mục phải bắt buộc lang thang đây đó nhưng có lúc họ cũng dừng chân lại một chỗ khá lâu. Đó là lúc đóng trại. Mỗi đoàn trại gồm có nhiều khóm lều (ayil) dựng trên nền cỏ hoặc trên xe bốn bánh sắp vòng tròn, chừa một sân rộng ở chính giữa. Lều của dân săn bắn thì nhỏ hẹp, nghèo nàn, khác hẳn lều của bọn du mục thường lợp bằng da thú. Đến thế kỉ XIII, lều của hạng Khả Hãn rất rộng rãi, tiện nghi, chứa đầy da thú và thảm đẹp, gần như một thứ dinh thự lưu động. Có hai thứ lều, nhờ đó người ta có thể phân biệt được dễ dàng nhóm Mông Cổ săn bắn và nhóm Mông Cổ du mục.
Ger (còn gọi là Yourte) là thứ lều tròn lợp da thú, sườn bằng cây, gồm những cây chống, cây ngang rất phức tạp, thấy rõ là dân ở miền thừa thãi gỗ.
Maikhan là thứ lều rộng mà thấp, sườn bằng loại gỗ nhẹ, tháo ráp dễ dàng: vách gồm nhiều tấm phên bằng len, mặt trong có chèn thêm một lớp cỏ khô. Nóc lều tựa như cái nón lá lớn úp xuống, giữa đỉnh có một ống khói nhỏ. Trong lều người Mông Cổ lúc nào cũng có một bếp lửa chụm phân bò khô và khói thoát ra ở cái ống đó. Thời Thành Cát Tư Hãn, loại lều này thường dựng trên xe bốn bánh rất tiện cho việc vận tải, di chuyển. Khách đến nhà phải ngồi ở tại ngưỡng cửa bên mặt, chủ nhà ngồi trịch bên trong và ngay cửa.
Ngày nay tiến bộ hơn họ đã biết xây nhà bằng đá, nhưng chừng như chưa bỏ được thói quen ở lều, nên nhiều gia đình có nhà rồi mà còn dựng thêm cái lều nguyên vẹn kiểu xưa ngay trước sân.

D. Con ngựa đối với người Mông Cổ

Nhưng con ngựa mới là loài thiết yếu hơn hết trong đời sống du mục. Trên một cõi đất bao la mà những cánh đồng cỏ thường cách nhau hàng trăm dặm đường, người Mông Cổ chỉ trông cậy vào phương tiện giao thông nhanh hơn hết là ngựa.
Ngựa Mông Cổ thấp, chân to, lông dày, cổ nở, dáng không đẹp bằng ngựa Ả Rập nhưng rất khoẻ, sức bền bỉ, lại ăn ít. Họ chú trọng sản xuất ngựa thật nhanh, thật nhiều vì mỗi tấc đường đều cần đến ngựa và chỉ có họ mới điều khiển nổi những con ngựa bất kham ấy. Họ phi ngựa như bay không cần cầm cương, hai tay đều rảnh để cầm vũ khí. Ngựa đang phi họ có thể nhảy xuống đất chạy theo, rồi nhảy trở lại lên lưng như trò xiếc: có thể cỡi suốt 15 giờ liền, mỗi ngày đi được 75 cây số. Họ rong ruổi đây đó, hoặc theo bầy súc vật hoặc đuổi thú rừng. Cuộc sống trên lưng ngựa đã gây cho người Mông Cổ một tâm hồn khoáng đạt, tự do; những lúc đi xa thường phải phi ngựa đơn độc và tự bảo vệ lấy sinh mạng của mình, do đó họ có tinh thần bình đẳng và tinh thần độc lập mạnh mẽ. Ngoài ra, qua bao thế kỷ, việc nuôi ngựa và say mê thích thú nghề kỵ mã đã tạo ra một số người nặng óc tự tôn, trở thành giai cấp quý tộc Mông Cổ.

E. Tín ngưỡng

Người Mông Cổ có một ý niệm rất mơ hồ về đấng Tối Cao đã sáng tạo ra thế giới: họ gọi là Trời Xanh. Nhưng không thấy họ hình dung đấng ấy ra sao cả, cũng không bao giờ dựng nhà thờ phượng.
Thành Cát Tư Hãn đã có lần ngạc nhiên về những cuộc hành hương ở La Mecque, phát biểu ý kiến như sau: “Cả vũ trụ đâu cũng là nhà của Đấng Tối Cao, tại sao phải định một chỗ riêng rồi tới đó tỏ lòng tôn kính?”
Lời nói đó thể hiện đúng tâm lý của dân du mục: đối với họ đâu cũng là nhà, đâu cũng như nhau cả. Họ sợ hãi thần Đá, thần Cây, thần Gió Bão, thần trên đỉnh núi cao có mây bao phủ và bọn Ma Quỷ tác quái gây ra chứng đau bụng, gieo các thứ bệnh tật trong bầy súc vật, thần Bạch Hổ và tất cả những đấng vô hình. Nhưng họ không thờ cúng bao giờ, chỉ tỏ ra bằng cử chỉ kính nể, vái lạy hay cầu khẩn.
Đồng cỏ là nơi hiếm cây, hiếm đến nỗi một cây có bóng mát đã trở thành một vật linh thiêng. Cho đến ngày nay, một người Mông Cổ Khalkha hoặc Kirghize khi gặp một cây nào đứng trơ trọi liền xuống ngựa dở mũ lạy mấy lạy, rồi máng lên cành một mảnh vải, một miếng da trừu hoặc một chùm lông bờm ngựa. Vô cớ mà bẻ nhánh hay đốn một cây nào là xúc phạm đến đấng thiêng liêng, làm cho vị thần ở cây đó và thần Thảo Mộc phẫn nộ. Ngoài ra ngọn núi cao và chòm cây cổ thụ cũng là hai thứ linh thiêng mà dân du mục rất kiêng sợ. Để tỏ lòng tôn kính, mỗi khi đi ngang qua những nơi này, họ dừng lại khấn vái rồi bỏ một hòn đá lên đống đá lớn do bao người trước đã chồng lên.

Trên đây là kì 1 nói về tiểu sử thời thơ ấu của Thành Cát Tư Hãn và con người Mông Cổ xưa. Kì 2 sẽ cố gắng ra sớm nhất nhé, cảm ơn mn đã đọc !



Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *