Báo điện tử Dân Việt xin giới thiệu tới bạn đọc nội dung bài viết này.
CHA TÔI VÀ NHỮNG KỶ NIỆM SỐNG MÃI CÙNG THỜI GIAN
Cha tôi – nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận mất đã hơn 40 năm. Nhưng những kỷ niệm về ông luôn luôn sống động và tràn đầy trong ký ức của mỗi chúng tôi. Thật khó mà có thể nói hết được. Trong trí nhớ của chúng tôi, cha bao giờ cũng là người hiền hậu và yêu thương các con hết mực. Cuộc đời ông có những con số, những sự kiện trùng hợp một cách ngẫu nhiên khá lạ lùng. Ông sinh ngày 14-7-1921. Con trai đầu lòng Lưu Quang Vũ của ông sinh ngày 17-4-1948. Ông mất ngày 21-2-1981, đúng vào ngày sinh nhật lần thứ 15 cậu con trai thứ 5 mang tên người bạn thân nhất của ông là Lưu Quang Định. Cha tôi mất đột ngột vì bệnh tim ngay tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội khi đang xem vở kịch Kẻ đốt đền cùng với mẹ tôi. Bà kể lại rằng, khi vở diễn vừa mở màn, tiếng nhạc bùng lên thì cha tôi bỗng gục xuống và vĩnh viễn ra đi. Những người bạn trong giới sân khấu của cha tôi đều thấy kinh ngạc và lạ lùng vì điều đó. Tác giả Kính Dân viếng cha tôi câu đối:
– Đời khép lại khi màn trò hé mở
Cười là đây mà khóc cũng là đây
– Hồn bay lên giữa công chúng bùng sôi
Sống nơi đó, chết cũng về nơi đó.
Nhà thơ Hoài Anh viết: Tình sân khấu trọn đời men nóng hổi/ Anh sống là tác giả – sống như thơ/ Và chết là khán giả – chết như mơ.
Cha tôi sinh ra và lớn lên tại thành phố Đà Nẵng. Ngôi nhà của ba má ông nằm kề ngay trên bờ biển. Sau này khi đã chọn Hà thành làm nơi sinh sống và lập nghiệp ông vẫn luôn mang nặng trong lòng nỗi nhớ “mảnh đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm”. Cha tôi học tiểu học ở Đà Nẵng, lớn lên một chút ông xa nhà ra Huế trọ học. Ông học giỏi từ nhỏ, có năm đã từng đoạt giải Pháp văn của mấy tỉnh Trung Kỳ. Cha tôi thường nói rằng một trong những nỗi bất hạnh nhất của đời ông là sớm thiếu vắng tình mẫu tử. Sau khi mẹ mất được ít lâu, cha tôi vào sống tự lập ở Sài Gòn, vừa đi học vừa đi làm và bắt đầu viết truyện, làm thơ đăng báo. Ông nội muốn cha tôi học hành đỗ đạt, rồi ra trở thành thầy phán, thầy ký. Nhưng ông lại thích ngao du giang hồ, say mê viết kịch và làm thơ. Năm 1941 cha tôi viết vở kịch đầu tay: Chu Du đại chiến Uất Trì. Đây là vở kịch vui một màn. Vừa ra đời vở kịch đã được Hội Hướng đạo học sinh sinh viên Đà Nẵng dàn dựng và biểu diễn nhiều lần ở Đà Nẵng, Hội An. Năm 1945 vở này còn được diễn ở Hà Đông. Năm 1942 tập thơ Tóc thơm được xuất bản. Thành công bước đầu tuy hết sức nhỏ bé, nhưng cũng đã giúp ông có thêm niềm tin để tiếp tục thực hiện những ước mơ nghệ thuật của mình.
Cha tôi đã truyền cho các con lòng say mê nghệ thuật của ông. Mấy anh em tôi, ngay từ nhỏ đã thường xuyên được ông cho đi theo trong những khi tập vở. Những buổi tập hoặc diễn thử rất ít người, thường chỉ ngồi kín một hai hàng ghế đầu. Chúng tôi được ngồi cạnh ông, say mê chăm chú theo dõi công việc của mọi người đang diễn ra trên sàn tập. Nhà tôi ở gần kề rạp Đại Nam. Mỗi buổi tối được theo cha sang đó xem diễn tập đã trở thành thói quen và niềm vui sướng của mấy anh em tôi. Cha tôi luôn luôn là người bạn lớn của các con. Trong những câu chuyện hàng ngày, trong mỗi bữa cơm, ông thường răn dạy chúng tôi không bao giờ được làm điều ác, phải biết thông cảm và chia sẻ với nỗi đau của người khác. Những khi đi công tác xa nhà, ông thường viết thư cho các con kể tỉ mỉ về công việc, về thiên nhiên cảnh vật, về những con người ở nơi đó. Cha tôi luôn mong muốn rằng sau này khi lớn lên chúng tôi có thể mỗi đứa sẽ làm một nghề khác nhau, nhưng dù làm nghề gì thì cũng phải giữ được tâm hồn nghệ sĩ, biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp.
Trong đời thường, cha tôi có hai niềm say mê lớn, đó là bóng đá và thiên nhiên. Ông yêu thiên nhiên theo cách riêng của mình. Cha tôi có mấy giò phong lan và chậu cây đặt ở khoảng sân hẹp trước hiên nhà. Những lúc rỗi rãi, cha tôi lúi húi rất lâu trước mấy chậu cây, buộc buộc cắt cắt. Ông chú ý từng lá non, từng chồi cây mới nhú. Có lần tôi đi chơi xa thấy một loại lá cây lạ rất đẹp. Tôi hái mang về nhà. Cha tôi rất thích. Ông cắm vào cốc nước để trên bàn làm việc. Có hôm ông bảo tôi: Con xem này, hơn mười ngày rồi nó vẫn sống, nó hút nước và lại còn đâm cả rễ nữa. Sinh ra và sống chủ yếu ở thành phố nhưng cha tôi rất thích đi về nông thôn.
Cả gia đình tôi đều bị cuốn vào cùng với niềm say mê của cha tôi. Tôi thấy cũng lạ, cha tôi là một người sống lặng lẽ, đơn giản, khiêm tốn. Ông rất yêu chiều và tôn trọng con cái, không bao giờ áp đặt một điều gì. Thế nhưng ở con người ông lại có một sức hút rất lớn. Chúng tôi đã lớn lên và chịu ảnh hưởng ở ông rất nhiều. Cha đã dạy chúng tôi yêu đất nước, yêu nghệ thuật bằng những điều thật cụ thể và gần gũi.
Mỗi khi cho các con đi rạp hát về, cha tôi thường giảng giải, phân tích những cái hay, cái đẹp của vở diễn, nhận xét về diễn xuất của diễn viên. Ngay từ hồi chúng tôi còn nhỏ, cha tôi đã dạy cho chúng tôi biết cách phân biệt các làn điệu chèo. Cha tôi lấy vở Tấm Cám của mình ra làm ví dụ. Có hôm thuận tiện, ông mời một cô diễn viên về nhà hát minh hoạ cho chúng tôi nghe. Nhiều năm qua rồi nhưng chúng tôi vẫn không quên cảm giác lâng lâng êm ả khi nghe bài Chức cẩm hồi văn của Tấm (trong lốt cây xoan đào) ru hoàng tử, điệu Ru xuân đầy cảm khái khi hoàng tử trở về làng Mai, điệu Con gà rừng gấp gáp như tiếng reo đắc thắng của mụ Cám khi đẩy được Tấm xuống ao, điệu Làn thảm rơi nước mắt của Tấm khi bị dì ghẻ ngược đãi, hay như màn hát Giao duyên đằm thắm của các liền anh, liền chị trong ngày hội làng. Cha tôi vẫn lấy làm tiếc rằng ông là người viết chèo mà lại hát không hay, múa không dẻo. Ông rất khâm phục tác giả Tào Mạt ở điểm này. Cha tôi kể rằng khi dựng vở, Tào Mạt thường múa hát mẫu, làm thị phạm ngay tại chỗ cho diễn viên rất giỏi. Lúc đầu nghe nói tôi không tin. Tôi không thể hình dung một người như chú Tào Mạt chân tay to bè cứng lòng khòng, mỗi khi đến nhà tôi chơi thường mặc bộ quần áo bộ đội bạc mầu, hút thuốc lào sòng sọc, lại có thể là người hát hay múa khéo. Thế nhưng một hôm cha tôi đã đề nghị ông “trình diễn” cho chúng tôi xem. Thoắt chốc, ông đã thành một người khác hẳn. Tay cầm chiếc quạt giấy, mắt liếc ngang, hai bàn chân chụm lại lướt nhẹ theo kiểu đuổi ngón trên nền đá hoa. Ông hát và diễn gần hết cả một trích đoạn trong một vở chèo cổ. Lũ trẻ con trong khu tập thể kéo đến bu kín cửa sổ xem mê mải. Cha tôi sợ ông mệt phải can mãi ông mới chịu dừng lại.
Năm 1969, anh Lưu Quang Vũ đang là bộ đội phòng không. Trong kì hội diễn của toàn binh chủng, anh đã viết vở chèo Đôi bạn quê hương. Vở diễn được anh em bộ đội hoan nghênh và đã dành được giải cao. Khả năng ấy có lẽ đã được cha tôi vun đắp từ những ngày anh tôi còn nhỏ. Khi cha tôi mất, bên cạnh các bản thảo, ghi chép, nhật ký của ông để lại còn có rất nhiều thư từ của bạn bè, người thân. Trong đó có tập thư của mấy anh em tôi, ông đã lưu giữ trong mấy chục năm, từ lúc chúng tôi mới bắt đầu tập viết nét chữ bằng mực tím nguệch ngoạc, xiêu vẹo cho đến những năm sau này khi đã khôn lớn, có chút tên tuổi, có gia đình riêng, đi học nước ngoài, đi chiến đấu ở chiến trường xa… Đối với các con dâu, cha tôi cũng hết lòng yêu quý. Mỗi khi đi công tác về, bao giờ ông cũng dành phần quà chu đáo, đều khắp cho các con. Chính chị Xuân Quỳnh đã nói với tôi rằng về nhiều mặt, chị thấy gần gũi và thân thiết với cha tôi còn hơn cả bố đẻ của chị. Chị đã viết truyện ngắn Ông nội, ông ngoại – một câu chuyện cảm động dành cho thiếu nhi, nội dung và những tình tiết trong đó hoàn toàn có thật, lấy hình ảnh cha tôi làm nguyên mẫu.
Cha mẹ tôi sống với nhau được 35 năm. Tình yêu của cha tôi đã có sức nâng đỡ rất lớn cho mẹ tôi trong những lúc khó khăn nhất. Cuộc đời mẹ tôi phải gánh chịu những nỗi đau khổ thật kinh khủng nhưng cũng có những niềm tự hào thật lớn lao. Chỉ một thời gian ngắn trong tháng 9 năm 2000 bà đã mấy lần bước lên sân khấu Nhà hát lớn thành phố để nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho chồng, cho con dâu Xuân Quỳnh và Giải thưởng Hồ Chí Minh cho con trai Lưu Quang Vũ.
Cha tôi không phải là một người thật nổi tiếng. Cuộc đời ông không có gì chói chang đặc biệt. Điều lớn nhất ông để lại cho chúng tôi là nhân cách của người nghệ sĩ một đời lao động, một đời trong sạch. Tình yêu và niềm tự hào về cha mình đã đi theo chúng tôi suốt đời. Ngay cả khi cha tôi đã mất, chúng tôi vẫn cố gắng sống và làm theo những điều mong mỏi của ông.
Điều an ủi lớn nhất là cha tôi mất đi nhưng đã để lại những điều tốt đẹp trong tư tưởng và tâm hồn mình cho những người quen biết và yêu quý ông. Đối với chúng tôi, kỷ niệm về cha mình đã trở thành những dấu ấn của một thời và mãi mãi. Như những câu thơ anh Lưu Quang Vũ đã viết: Cha vẫn còn kia như sông nước hiền hoà/ Vẫn ở quanh con như ánh sáng trong nhà/ Trong mỗi chúng con, trong mỗi ngày đang sống/ Trong hoa trái của cuộc đời bất tận…
PGS.TS. LƯU KHÁNH THƠ