Chiến dịch Reservist: Khi quân Đồng Minh bị hủy diệt bởi quân Pháp của Vichy trong Đệ Nhị Thế Chiến
Sau sự sụp đổ của Pháp trong Đệ Nhị Thế Chiến, một chánh quyền bù nhìn đựoc thiết lập, với trung tâm hành chánh tại thị trấn Vichy, tự xưng là Chánh Phủ Vichy của Pháp. Quân đội thực dân Pháp đã không liên minh với Phe Phát xít nhung chống lại bất kỳ nỗ lực nào của quân Đồng Minh nhằm chiếm đóng bất kỳ phần lãnh thổ nào của Đế Chế Pháp. Quân Đồng Minh cần dùng lãnh thổ Pháp ở Bắc Phi để bảo vệ nó khỏi ảnh hưởng của Phát xít và cũng để giúp họ đánh bại Quân Đoàn Phi Châu.
Chiến dịch của quân Đồng Minh tại Bắc Phi thuộc Pháp đã bắt đầu bằng cách tung ra Chiến dịch Torch (Ngọn đuốc) qui mô lớn, vào ngày 2 tháng 11 năm 1942. Một trong những chiến dịch trong cuộc tiến công này là chiến dịch Reservist – cuộc tấn công trực diện vào cảng Oran của Algeria, dưới sự kiểm soát của Vichy Pháp.
Đó là một chiến dịch kết hợp hải quân và đổ bộ hết sức phức tạp trên bờ biển Địa Trung Hải của Algeria. Với mục đích vô hiệu hóa phòng thủ bờ biển và bao vây thành phố Oran, nhằm cắt đứt quân tiếp viện từ các tiền đồn nội địa khác, Sư Đoàn Oran có 10,025 quân nhưng đã phân tán khắp các khu vực xung quanh. Bên cạnh việc giải tỏa bến cảng, mục tiêu là bắt giữ 31 tàu chiến của Pháp (hầu hết không hoạt động) neo tại cảng.
Bản thân thành phố đựoc phòng thủ bởi đại bác hạng nặng từ 193 đến 240 mm và được bố trí 4,000 thủy thủ đoàn hải quân, bao gồm cả các đợn vị phòng không.
Vào đêm ngày 8 tháng 11, các điều kiện để bắt đầu chiến dịch Reservist được đáp ứng với ba bãi biển Arzew, Mersa Bou Zedjar và Les Andalouse, phía đông và phía tây của thành phố được bảo đảm. Chúng được chọn để đổ bộ tù HMS Walney, cùng với HMS Hartland được điều động để chi viện hỏa lực pháo.
Quân Đồng Minh đã hoàn toàn đảm bảo rằng yếu tố bất ngờ sẽ mang lại lợi thế họ cần để nhanh chóng chiếm lấy thành phố mà không có hoặc có rất ít kháng cự. Họ cũng đã tin vào khả năng đầu hàng của quân Pháp vì Đồng Minh với sự giúp đỡ Tướng Charles De Gaulle của Quân đội Tự do Pháp đang trong quá trình chiêu dụ lực lượng Vichy vào hàng ngũ của họ thông qua tuyên truyền và thuyết phục.
Task Force Chỉ huy đã tung ra một nhóm đổ bộ gồm 393 người thuộc biên chế Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn Thiết Giáp 6, cùng với một đơn vị đặc biệt chống phá hoại, được điều động bằng ca nô. Chiến dịch đựoc chỉ huy bởi Thuyền trưởng Frederic T. Peters, là một cự Sĩ quan Hải quân Anh đã nghỉ hưu. Ông đã tình nguyện cho nhiệm vụ này và chỉ huy từ trên tàu HMS Walney.
Chiến dịch đã không thể bắt đầu vào một thời điểm tệ hơn – vào ngày 8 tháng 11, lúc 2 giờ 45 phút, ngay sau khi quân Pháp phát chuông báo động chính và sẵn sàng đối mặt với địch thủ. Lực lượng đặc nhiệm được chỉ thị chỉ bắn khi cần thiết, vì họ vẫn tin vào sự đầu hàng của quân trú phòng.
Nhưng quân Pháp đã làm điều trái ngược với những gì đựoc mong đợi. Họ đã nhả đạn vào hướng HMS Walney, gây thiệt hại nghiêm trọng trong khi con tàu đang cố lao tới phía đông cảng. Con tàu vượt qua hàng pháo bờ biển đã chuyển sự chú ý sang tàu HMS Hartland, theo sau. Đến đựoc cảng, Walney đã chạm trán một Khu Trục Hạm của Pháp.
Walney đã cố đâm vào Khu Trục Hạm đó, nhưng chỉ làm xước nó và quân Pháp khai hỏa vào boong tàu Đồng Minh, chứa đầy lính đang chờ đổ bộ, gây nhiều thuơng vong. Sau đợt chạm trán này, chiếc HMS Walney đã cố lèo lái về phía bờ tây nhưng gặp phải hỏa lực dữ dội từ trên bờ. Đám cháy bùng lên. Đạn dược trở thành mồi lửa.
Các khẩu pháo trên tàu đã ngưng hoạt động. Mọi người trừ một sĩ quan trong khoang chỉ huy đã tử trận. Những người lính can trường và chỉ huy của họ, Đại Tá Marshall, đã tiếp tục khai hỏa bằng súng cá nhân, một số thì cho đến khi ngã xuống và số khác cũng dần nhận được lệnh truyền từ người này sang người khác, bỏ tàu thôi. Cuối cùng, HMS Walney đã bị bỏ rơi và để cho chìm một phần ở đầu phía Tây bến cảng.
HMS Hartland tiếp tục tiến công, cố gắng trong tuyệt vọng nhằm đổ bộ một lượng nhỏ quân lính. Hầu hết khẩu đội pháo và rất nhiều binh lính đang bò dưới boong tàu đã tử trận hoặc bị thuơng trong cuộc tấn công này. Chỉ huy Billot trên tàu HMS Hartland đã bị mù tạm thời bởi một mạnh mảnh pháo. Chiếc thuyền đã không thể tìm thấy lối vào và đâm vào đê chắn sóng phía nam. Người chỉ huy bị thuơng đã phải cho tàu lùi lại và tiến lên mặc cho những vụ nổ đang chờ đóng phía trước.
Khi tàu xoay quanh điểm cuối gần căn cứ, mũi tàu đã xượt qua Khu Trục Hạm Typhoon của Pháp thả neo tại cảng. Một ngọn lửa từ hư không đã xé toạc thân tàu đựoc bọ giáp mỏng manh, khiến con tàu rực sáng tại nhiều chỗ và khiến cho nó mất kiểm soát.
Trong lúc chiếc thuyền bị trôi đi, trong tình trạng sắp phát nổ rất nguy hiểm, Chỉ huy Billot đã ra lệnh bỏ tàu. Một giờ khi Hartland đã chìm trong biển lửa ngoài cảng, tất cả người sống sót đã thoát khỏi chiếc thuyền đã bị hủy diệt và rực lửa bằng xuồng máy và rút lui về phía biển.
Những người lính Vichy Pháp đã đánh bại toàn diện quân Đồng Minh, những người đã đánh giá sai tinh thần và khả năng chiến đấu của họ. 17 sĩ quan trong số 376 người lính được tin tưởng giao cho nhiệm vụ chiếm cảng Oran, chín sĩ quan và 180 lính đã tử trận trong khi 152 người khác bị thuơng.
Chỉ có ba sĩ quan và 44 lính đã đổ bộ mà không chịu thuơng vong. Thiệt hại của Hải Quân Mỹ là năm chết và bảy bị thuơng, Hải Quân Hoàng Gia thiệt hại 113 chết và 86 bị thuơng. Tất cả những người sống ót đã bị bắt, ban đầu đựoc xem là dân sự và sau đó là tù binh chiến tranh. Trận Oran đã được tiến hành như là một cuộc vây hãm vì các đợt đổ bộ trên các bờ biển khác gần như không gặp kháng cự.
Hai ngày sau đó, quân Pháp đã đầu hàng thành phố nhưng vẫn kịp xoay sở phá hủy các cơ sở vật chất trong cảng và vô hiệu hóa các tàu trong đó. Việc chiếm giữ Oran đã mở ra một chuơng đẫm máu trên Mặt Trận Bắc Phi.