Phật giáo đã thay đổi như thế nào khi được truyền sang Trung Quốc?

Ôi trời ạ, lại là tôi ngồi đây tiếp tục phân tích những tương tác tôn giáo giữa Ấn Độ và Trung Quốc đây!

Như thế này, Phật giáo đã có rất nhiều thời gian để biến chuyển và thay đổi trước khi băng qua Con đường Tơ lụa và đặt chân tới Trung Quốc. Nếu chúng ta giữ nguyên trạng câu chuyện về nền tảng của Phật giáo thì nó xuất hiện phần lớn như một thách thức khổ hạnh đối với các lễ hiến tế và nghi lễ của Bà la môn Vệ Đà – vốn là tín ngưỡng và cấu trúc xã hội đang thống trị ở tiểu lục địa. Tuy nhiên, những triết lý hợp nhất thành cấu trúc niềm tin đó được cho là có nguồn gốc từ khoảng thế kỷ thứ 4 và thứ 6 trước Công nguyên với một người đàn ông được biết đến với nhiều cái tên khác nhau như Siddhārtha Gautama, Shakyamuni, hay đơn giản là… Phật, tức là “người giác ngộ”. Ông sinh ra ở sườn phía Tây của dãy Himalaya, nơi ngày nay là Nepal, nhưng khi đó được gọi là Vương quốc Magadha của Ấn Độ cổ đại – đặc biệt là cùng thời với các nhà triết học vĩ đại của Trung Quốc như Khổng Tử và Tôn Tử (mặc dù nghiên cứu hiện đại hơn có xu hướng cho rằng thời điểm đó gần với năm 400 trước Công nguyên hơn, nhưng thôi cứ kệ đi). Tuy nhiên, có rất nhiều vấn đề cần giải quyết giữa các vương quốc Gautama của Ấn Độ và Trung Hoa, vậy nên chúng ta chỉ bắt đầu thấy sự đề cập đáng kể đến việc các nhà sư du hành vào Trung Quốc vào cuối triều đại nhà Hán của thế kỷ thứ 2 CN… vậy nên sự thay đổi đó kéo dài khoảng từ giữa 600 đến 800 năm trước khi nó đến được Trung Quốc.

Bất chấp sự gần gũi về mặt địa lý của Ấn Độ với Trung Quốc, dãy núi Himalaya đã trở thành một rào cản khó khăn trong việc truyền bá triết học giữa hai nền văn hóa, và do đó thật là trớ trêu thay – mặc dù không có gì đáng ngạc nhiên – khi những người truyền đạo Phật giáo được cho là đã du hành đến tận phương Tây như Athens và Alexandria hàng thập kỷ hoặc thậm chí là hàng thế kỷ trước khi triết lý này được biết đến ở Trường An hoặc Lạc Dương (hai kinh đô cổ xưa nhất của Trung Quốc). Tuy nhiên, triết lý này đã lan rộng sang Trung Quốc thông qua Miến Điện ở Đông Nam Á và Lưu vực Tarim, nơi Con đường Tơ lụa đi qua. Cuối cùng, khi nó đến được Đế chế nhà Hán, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi nó đặt chân được tới đây thông qua tuyến đường thương mại được tái lập, tương đương với một siêu xa lộ thông tin của thế giới cổ đại, thay vì xuyên qua khu vực nội địa có rừng rậm dày đặc, phần lớn chưa được khám phá và chưa được ghi chép đầy đủ ở Nam Á, nơi mà Trung Quốc chỉ kiểm soát được trong một khoảng thời gian ngắn và không bao giờ có thể hòa nhập về mặt văn hóa vào phạm vi ảnh hưởng của họ.

Vào thời điểm thế kỷ thứ hai sau Công nguyên một số trường phái tư tưởng quan trọng trong Phật giáo đã xuất hiện, nhưng đối với mục tiêu của chúng ta thì trường phái đáng xem xét – trường phái sẽ tìm được chỗ đứng ở nhà Hán Trung Quốc – là trường phái Đại thừa. Giáo phái Đại thừa, xuất hiện vào thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên, có sự khác biệt đáng kể so với triết lý “Trung đạo” của Thích-ca Mâu-ni… nổi bật nhất với khẳng định rằng bất kỳ ai cũng có thể thành Phật – ngay cả trong kiếp này! – bởi vì mỗi chúng sinh đều mang trong mình bản chất nội tại của Đức Phật. Để đạt được mục tiêu đó, các tín đồ được khuyến khích thu hút càng nhiều người đi trên con đường giác ngộ càng tốt và nhanh nhất có thể. Bạn có thể nghĩ rằng nó hơi giống Phật giáo Tin Lành. Cũng cần phải đặc biệt chú ý rằng chính từ trường phái Đại thừa mà các trường phái Thiền tông đến sau sẽ xuất hiện vào thời điểm thích hợp.

Theo truyền thuyết, Phật giáo có thể đã len lỏi vào Trung Quốc ngay từ thời trị vì của Hoàng đế nhà Hán giữa năm 57 và 75 sau Công nguyên. Theo Hậu Hán Thư, chuyện kể rằng một đêm nọ, Minh Đế nằm mơ thấy một hoặc nhiều người phủ một lớp vàng. Khi ông kể với quần thần của mình vào ngày hôm sau, mà theo như lời kể của tác phẩm Phật giáo kinh điển của Trung Quốc là Mâu Tử – Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 5, hay “Bộ Luận Lý Giải Những Điều Mê Lầm Của Mâu Tử”, câu chuyện huyền thoại về sự cải đạo của Minh Đế đã diễn ra như sau:

“Một đêm, Hán Minh Đế mơ thấy một vị thần cao hai trượng, toàn thân phủ một lớp vàng lóng lánh, trên đầu đội một vòng vàng lấp lánh, người mềm mại yểu điệu thướt tha. Ngài bay đến trước đại diện trong Vương Cung. Thấy vị thần này, Hán Minh Đế vô cùng vui vể. Lập tức ngài tỉnh dậy, ngài cảm thấy ngơ ngác và tiếc rẻ mãi. Ngày hôm sau ngài lại mơ thấy vị thần này, lập tức ngài đi hỏi quần thần:” vị thần này sống ở phương trời nào?”lúc đó có một vị tên là Sát Âm, là một người học sâu hiểu biết rộng, ông ta liền trả lời rằng :” con nghe nói ở nước Thiên Trúc phương Tây (Tức Ấn Độ cổ đại) có một vị đắc đạo, được mọi người tôn xưng là Phật, ngài có thể bay một cách nhẹ nhàng. Người mà bệ hạ mơ thấy chính là vị thần này”.”

Quyết tâm đi tìm ngọn nguồn, Minh Đế đã phái một đoàn 18 người tới Tây Phương để đi tìm nguồn gốc cảnh mộng của ông và mang về cho ông những gì họ có thể học được từ vị Phật này. Nhiều năm sau, phái đoàn được cho là đã quay trở lại, mang theo hình ảnh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng như Tứ Thập Nhị Trương Kinh và hai tu sĩ Phật giáo lỗi lạc được cử đến để rao giảng cho vị Hoàng đế Trung Hoa về đường lối của họ. Vào năm tiếp theo, nhà Minh đã ra lệnh xây dựng Bạch Mã Tự, tức chùa Bạch Mã, để tưởng nhớ những người đã truyền kinh cho ông. Việc liệu người ta có tin tưởng câu chuyện được viết gần nửa thế kỷ sau cái chết của Minh Đế và không được biên soạn cho đến giữa thế kỷ thứ 5 hay không, điều đó vẫn còn gây tranh cãi. Tuy nhiên, chùa Bạch Mã thường được coi là ngôi chùa Phật giáo sớm nhất được xây dựng ở Trung Quốc.

Cho dù chúng ta có thực sự tin vào truyền thuyết về giấc mơ của Minh Đế và Bạch Mã Tự hay không, thì bước tiến đầu tiên của Phật giáo vào Trung Quốc đã diễn ra rất chậm. Một là vì nó rất xa lạ – cả về mặt khái niệm cũng như rào cản ngôn ngữ giữa các cuộn giấy và Kinh điển có thể được mang trở lại, cũng như những gì người dịch có thể hiểu được về chúng. Các bản dịch kinh ban đầu có xu hướng cứng nhắc, gượng gạo và kỳ lạ, đồng thời mất đi nhiều ý nghĩa ngụ ngôn sâu sắc hơn trong bản dịch. Vì vậy hầu hết những người ở Trung Hoa không đặc biệt quan tâm lắm đến giáo phái nhỏ bé kỳ lạ này và vị thần dát vàng của họ. Họ có Đạo giáo, họ có thờ cúng tổ tiên, họ có triết học Nho giáo dẫn dắt, nên là cảm ơn rất nhiều nhé nhưng mà không cần đâu.

Thứ dường như trở thành một cú huých đáng kể và thay đổi động lực này chính là Thời kỳ Chia Rẽ. Nghe có vẻ khá sát trùng nhỉ. Trên thực tế, đây là một chuỗi các cuộc nội chiến rộng lớn kéo dài khoảng 400 năm đã chia cắt Trung Hoa… đầu tiên là Tam Quốc khét tiếng, sau đó là hơn 16 nước, cho đến khi đế chế cuối cùng được thống nhất vào đầu thế kỷ thứ 7. Chính trong bối cảnh chiến tranh liên miên, khốc liệt, tàn khốc này mà Phật giáo thực sự tìm được chỗ đứng của mình ở Trung Hoa. Các cuộc chiến tranh phần lớn nổ ra vì ngày càng có nhiều người không phải người Trung Hoa từ Trung Á và các vùng thảo nguyên phía Bắc đã được đưa vào Đế quốc – cho dù thông qua việc cưỡng bức di dời, xâm chiếm, chư hầu hay chỉ đơn giản là tự họ di chuyển tới đó. Tất nhiên đây là một sự đơn giản hóa quá mức, nhưng tôi không muốn đào quá sâu vào chủ đề của những mưu đồ chính trị xã hội của Thời đại trong khi đang cố gắng thảo luận về tôn giáo. Tất nhiên rồi, những người mới sẽ mang đến những ý tưởng mới… và những người đang tìm cách thay đổi văn hóa của họ (và trang phục, ngôn ngữ, tên, v.v.) sẽ có xu hướng cởi mở hơn khi nghe về những vị thần dát vàng nhỏ bé của các nhà sư này hơn là người Hán. Điều đó không có nghĩa là các hoàng đế nhà Hán bị buộc phải di cư xuống phương Nam cũng sẽ không quan tâm nhiều hơn đến Phật giáo theo thời gian, nhưng các triều đại không phải nhà Hán ở nơi phương Bắc đã cởi mở hơn đáng kể với nó, ít nhất là lúc ban đầu. 

Nhưng vẫn còn ở đó vấn đề về ngôn ngữ. Và chuyện đó không thực sự được giải quyết cho đến giai đoạn sau của Thời kỳ 16 Nước với sự xuất hiện của Thiền sư Cưu-ma-la-thập ở phía bắc của Hậu Tần vào giữa đến cuối thế kỷ thứ 4. Ông đến từ vùng Viễn Tây trước đây do người Hán thống trị, tức Tây Vực, bao quanh sa mạc Taklamakan. Thiền sư Cưu-ma-la-thập đã thành công trong việc làm cho người Trung Quốc điều mà các nhà sư trước đây đã thấy khó đến mức không thể nào thực hiện được: dịch kinh Phật một cách thật hiệu quả và đẹp đẽ thành những tác phẩm văn học Trung Quốc rõ ràng, sâu sắc, khiến cho giáo lý trở nên dễ tiếp cận và dễ hiểu hơn đối với phần lớn dân chúng. Trong suốt Thời kỳ Chia Rẽ, các triết lý trước đây đóng vai trò là kim chỉ nam đạo đức của nền văn minh Trung Hoa – những lời dạy của Khổng Tử – đã mất đi phần lớn ánh hào quang, kể từ thái độ coi thường của Khổng Tử đối với lối cai trị “lẽ nào chúng ta không thể hoà hảo cùng nhau hay sao” và khẳng định của Mạnh Tử rằng nhân chi sơ tính bản thiện… không phù hợp lắm với nỗi kinh hoàng và sự tàn phá mà Trung Quốc đã phải đối mặt trong hơn 200 năm không ngừng nghỉ. Nguyên tắc cốt yếu của Phật giáo: cuộc sống về bản chất là một chu kỳ đau khổ, vô thường và mất mát để có thể thoát khỏi… hẳn phải là một thế giới quan thực tế và hợp lý hơn nhiều đối với người dân Trung Hoa đang bị sốc về mặt văn hóa ở thế kỷ thứ 4 và thứ 5, vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi bây giờ họ đã có thể đọc kinh nên nó sẽ lan truyền một cách nhanh chóng.

[Tiếp theo ở Phần 2]

Phần 2

Nhưng tất nhiên, phong trào Phật giáo Trung Quốc đang chớm nở sẽ có những đối thủ cạnh tranh – chủ yếu là các trường phái tư tưởng Đạo giáo. Đạo giáo hẳn cũng là nguồn an ủi và là cách để hiểu một thế giới bị rơi vào hỗn loạn, vì những yếu tố cốt lõi của nó xoay quanh ý tưởng về một “lực” không tên và không thể hiểu được đã điều khiển các sự kiện của vũ trụ, nó có thể ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi trạng thái cân bằng giữa năng lượng Âm và Dương bên trong một người, một địa điểm hoặc một sự vật – sự cân bằng liên tục giữa Mặt sáng và Mặt tối của thực tại luôn đối đầu với nhau, nhưng về cơ bản lại không thể tồn tại nếu thiếu đi nửa kia. À phải rồi, khi một người tu hành chết đi, họ sẽ hoà làm một với Đạo và trở nên mạnh mẽ hơn những gì mà bạn có thể tưởng tượng. Tất cả những gì thực sự còn thiếu là thanh kiếm ánh sáng.

Ở phía Nam, Đạo giáo đã biến chuyển sang hình thức gọi là “tân Đạo giáo”, hay trong tiếng Trung là Huyền học, nghĩa đen là “những nghiên cứu phức tạp, bí ẩn hoặc sâu sắc”, câu này tóm tắt khá ngắn gọn những gì họ làm với thời gian của mình: thiền định và nghiền ngẫm Kinh Dịch cùng Đạo Đức Kinh và nhận được sự bảo trợ của hoàng tộc từ Hoàng đế của triều Lưu Tống. Nhưng ở phương Bắc, [Bắc Ngụy Thái Vũ Đế](http://a2.att.hudong.com/83/74/01300000280411124679745616978_s.jpg) là một người sùng Đạo giáo và chịu ảnh hưởng của một giáo phái gọi là Thiên Sư Đạo, vốn bắt nguồn ở Tứ Xuyên vào đầu thế kỷ thứ 2 nhưng đã di cư về phía Bắc sau khi kết thúc thời kỳ Tam Quốc. Bất chấp sự cạnh tranh với Phật giáo, Bắc Thiên Sư Đạo đã ít nhiều tiếp thu một số yếu tố then chốt trực tiếp từ tôn giáo bắt nguồn từ Tây Phương này. Những “sự vay mượn” này bao gồm chủ nghĩa tu viện, các yêu cầu về chế độ ăn uống và lối sống rất giống với những sự cấm đoán của Phật giáo, một vòng nghiệp báo gần như nguyên văn về cái chết và sự tái sinh, các phong cách nghệ thuật Đạo giáo bắt đầu có vẻ giống Phật giáo một cách đáng ngờ, và thậm chí có cả những tuyên bố rằng chính Đức Phật là một học trò – phải rồi đấy, một học trò của Lão Tử, người được coi là hiện thân dưới dáng vóc con người của cái Đạo vĩnh viễn và là người tạo ra vạn vật, đồng thời cũng là người thỉnh thoảng sẽ ghé qua để mang đến “cập nhật” và kinh sách mới cho các bậc thầy về Đạo.

Sự tương tác giữa hai tôn giáo này, được hỗ trợ một phần không hề nhỏ bởi một thực tế rằng họ thấy mình ở hai phía đối lập trong cuộc đấu tranh đang diễn ra để giành quyền tối cao ở Trung Hoa, gần như khẳng định rằng sẽ có một cuộc xung đột dựa trên tôn giáo trong những năm và thập kỷ tới. Quả thực vậy, mặc dù ở miền Nam, Hoàng đế của Lưu Tống không tán thành cũng không lên án những tư tưởng đột nhiên lan truyền rộng khắp tầng lớp nông dân, thì ở miền Bắc lại có một phản ứng dữ dội chống lại sự truyền bá của Phật giáo. Và không có gì đáng ngạc nhiên khi một số vị vua cũng có quan điểm cứng rắn hơn về vấn đề này. Suy cho cùng, thứ khẳng định quyền cai trị của họ – Thiên mệnh – lại ràng buộc một cách mơ hồ với đền thờ Đạo giáo. Vậy nên đối với khả năng áp dụng Phật giáo, một người cai trị thà rằng bỏ qua những thứ giá trị còn hơn là mắc phải sai lầm. Phải rất lâu nữa tư tưởng Phật giáo mới trở nên phổ biến trong giới tinh hoa cầm quyền Trung Quốc, và nó sẽ đòi hỏi toàn bộ các trường phái tư tưởng mới kết hợp được hai hệ thống tín ngưỡng lại với nhau; các trường phái như Phật giáo Thiền tông – với sự không tin tưởng vào nghi thức tế lễ, tụng kinh hay thậm chí là chính ngôn ngữ mà thiên về nội tâm sâu sắc và thiền định về Thần thánh, như được trích từ câu mở đầu của tác phẩm tiêu biểu về tư tưởng Đạo giáo, Đạo Đức Kinh: “Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh,” nghĩa là “Đạo mà có thể gọi được, không phải là Đạo hằng cửu. Tên mà có thể gọi được thì không phải là tên hằng cửu.”

Nhưng sự ra đời của một tư tưởng Phật giáo thực sự theo phong cách Trung Hoa sẽ phải trải qua từ thử thách này qua thử thách khác, giống như bất kỳ quá trình sinh nở nào khác, một công việc đau đớn, phải có máu và sự hy sinh sâu sắc. Và chẳng có nơi nào đúng với điều đó hơn ngoài phía Bắc Trung Quốc. Bởi vì mặc dù Lưu Tống Văn Đế có giữ khoảng cách với Phật giáo, nhưng ông không công khai thù địch với tư tưởng này… nhưng người tương ứng với ông ở Bắc Ngụy, Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, lại gần như không khoan dung với thứ tôn giáo ngoại lai kỳ lạ này. Và ấy chẳng phải là một điều khó khăn khi ông quyết định rằng tôn giáo này là một thứ mầm bệnh mà ông ta cần phải loại bỏ hoàn toàn khỏi đế chế của mình.

Thái Vũ Đế từ lâu đã là một tín đồ nhiệt thành của Đạo giáo, vậy nên quay trở lại vào năm 423, một trong những hành động đầu tiên của ông sau khi đăng cơ là tuyên bố người sáng lập và những người đứng đầu của Bắc Thiên Sư Đạo, trong số những thiên sư, những “sứ giả trên thiên đình” được phong theo sắc lệnh của triều đình đó, có một Khấu Khiêm Chi. Kể từ năm 415 – dưới thời trị vì của cha Thái Vũ Đế, tức Minh Nguyên Đế, – Khấu Khiêm Chi về cơ bản đã tuyên bố tới tất cả mọi người rằng ông đã được chính Lão Tử giao cho nhiệm vụ thiêng liêng là cải cách Đạo giáo trên trần gian và đưa Đạo giáo lên ngôi thông qua “Vân Trung Âm Tụng Tân Khoa Chi Giới”. Thế rồi ngay trước khi nhận được sự ủng hộ của triều đình của Thái Vũ Đế, ông tuyên bố rằng mình đã được chắt trai của Lão Tử (bản thân ông cũng là một Thiên Sư đã nhập cõi trời) ra lệnh nhận lấy bộ kinh mới của mình và đi “phò tá Bắc phương Thái Bình Chân Quân”. Rõ ràng là Khấu Khiêm Chi biết rằng những lời tâng bốc sẽ đưa ta tới muôn nơi.

Tuy vậy, Khấu đã dành phần lớn cuộc đời mình sống ẩn dật trong tu viện, nhưng ít nhất thì ông cũng đủ tỉnh táo để nhận ra rằng mình là kẻ lạc lõng, vậy nên ông ta đã quay qua đệ tử của mình, người này tên là Thôi Hạo. Thôi đồng ý, ông và Khấu đã đạt được sự đồng thuận về quan điểm chính trị của họ: các tiền lệ pháp lý, đạo đức và xã hội cổ xưa của nhà Chu chính là đỉnh cao của nền văn minh, nó cần phải được khôi phục ở cả năm cấp bậc quý tộc và phong trào tích cực Hán hóa đế chế và thanh lọc nó trước những ý tưởng ngoại lai.

Về phần mình, Thái Vũ Đế đã bắt đầu triều đại của mình với chính sách tôn giáo giống như cha và ông nội của ông: khoan dung đối với nhiều tôn giáo, bao gồm cả Phật giáo. Trên thực tế, theo một số tài liệu, ban đầu ông có thể thực sự đã thích các nghi lễ Phật giáo hơn các nghi lễ của Đạo giáo. Các nhà sử học Lagerway và Lü đã viết như sau:

“Ví dụ, ông sẽ cho vời thỉnh các tăng nhân được trọng vọng đến để thảo luận với họ. Vào ngày mồng tám tháng tư, ông thường treo các “tượng phật” lên xe ngựa và diễu hành qua các đường phố rộng lớn. Hoàng đế sẽ đích thân đi lên tháp cổng để quan sát và từ đó rải hoa để thể hiện sự tôn kính của mình. […] Vào năm 425, Thái Vũ Đế ra lệnh thực hiện các nghi lễ Phật giáo để ăn mừng ngày sinh thần của chính mình [… và] vào năm 428, hoàng đế ra lệnh rằng những nghi thức này sẽ được thực hiện vào ngày sinh thần của ông tại các ngôi chùa Phật giáo trên khắp đất nước .”

Tuy nhiên, theo thời gian, ông dường như đã chấp thuận theo Đạo giáo của Khấu và Thôi Hạo. Phê chuẩn của triều đình đã có tác dụng kép trong việc đưa Đạo giáo trở thành quốc giáo chính thức, còn với Khấu thì việc này chính là trở thành người thống trị tinh thần tuyệt đối của Bắc Thiên Sư Đạo. Về sau đệ tử của ông là Thôi Hạo đã giành được vị trí uy tín là Tể tướng của Bắc Ngụy, nơi ông ta có thể thuyết phục thêm Hoàng đế nước Ngụy về những mối nguy hiểm mà tư tưởng Phật giáo gây ra cho vương triều cũng như chính ý tưởng về văn hóa của Trung Hoa. Nghe có vẻ kỳ lạ hoặc có lẽ là lố bịch khi coi Hoàng đế Bắc Ngụy – bản thân ông là thành viên của bộ tộc Tiên Ti, những người mà trong con mắt của người Hán ở Lưu Tống là những kẻ vũ phu thiếu văn minh – là một người kiên quyết bảo vệ cái chất của Trung Hoa. Nhưng các bộ lạc của những người đã di chuyển đến và chinh phục phía Bắc Trung Quốc đã tự Hán hóa bản thân trong hơn một thế kỷ kể từ chiến thắng trước triều đại Tây Tấn, tiếp thu các phong tục, ngôn ngữ và tín ngưỡng của họ… và giờ đã chiếm lĩnh các trung tâm văn hóa cổ xưa và đông dân nhất của Trung Hoa vào thời điểm này – toàn bộ Thung lũng sông Hoàng Hà. Nói tóm lại, những dân tộc từng là nỗi kinh hoàng của vùng thảo nguyên phía Bắc giờ đây lại thực sự trở nên rất Trung Hoa và còn cực kỳ tự hào vì điều ấy.

Cần phải chỉ ra rằng Thôi Hạo, mặc dù chắc chắn là một người ủng hộ nhiệt liệt Đạo giáo và các Thiên sư, nhưng cũng là một kẻ thù thẳng thắn của Phật giáo, ông đã nhiều lần và gay gắt coi đó là một thứ tôn giáo man rợ. Ông ta thể hiện một cách rõ ràng những gì ông ta nghĩ là phải xảy ra với những người theo đạo Phật trong điều mà cuối cùng sẽ trở thành một sắc lệnh chính thức của triều đình mà ông đã đích thân soạn thảo vào năm 446:

“We have received the heavenly line, and it has chanced, amid the evils of exhausted fortune. We desire to remove the false, establish the true, and restore the rule of [Fuxi] and [Shennong] [respectively, the traditional creator of humanity, and the progenitor of the Han People].”

Tiếp tục trích dẫn:

“We will completely shake off the barbarian gods and annihilate their vestiges, and thereby, we hope, have no occasion to beg forgiveness of the clan of Feng. If from now on there be any who dare serve the barbarian gods, or make images or statues of them in clay, or bronze, they shall be executed with their whole households… Let the officials proclaim to the generals of garrisons and the governors that all Buddhist reliquaries, images, and barbarian scriptures are to be completely destroyed and burnt, and that the sramanas [literally “seekers,” meaning Buddhist monks], without distinction to youth or age, are all to be buried alive.”

[Tiếp theo ở Phần 3]

Phần 3

Để mà nói thì mặc dù không có các chi tiết trung gian, có vẻ như đây là một bước nhảy vọt vượt bậc từ việc đơn giản chỉ là một người theo Đạo giáo cho đến việc ra sắc lệnh tiêu diệt tất cả các Phật tử, và lịch sử trước đó thường quy nó cho một sự kiện cụ thể duy nhất – cuộc nổi dậy Cái Ngô năm 446 – điều đó đã khiến Thái Vũ Đế coi toàn bộ Phật giáo và những người theo đạo này là mối nguy hiểm cần phải thanh lọc. Nhưng nhà sử học Lý Cương đã lập luận rằng thực ra đó không phải là bất kỳ sự kiện đơn lẻ nào, mà là đỉnh điểm của một chuỗi những sự thay đổi về mặt chính trị xã hội lâu dài và có chủ ý trong các cấp cao của chính quyền vương triều nhà Ngụy – điều sẽ dẫn đến Pháp nạn Đầu tiên. Ông viết:

“Lập trường chống Phật giáo của [Thái Vũ Đế] không phải là một sự ngẫu nhiên mà là kết quả của một quá trình lâu dài và liên tục. Vào năm 439 khi chinh phục Bắc Lương, ông đã nghi ngờ các tăng sư Phật giáo địa phương.”

Trên thực tế, vào năm đó để ngăn chặn các tăng sư Phật giáo địa phương khỏi “vượt quá tầm kiểm soát”, Thái Vũ Đế đã ra lệnh cưỡng bức thế tục hóa tất cả các nhà sư dưới 50 tuổi trong vùng Lương. Dưới sự xúi giục liên tục của Thiên chủ và Tể tướng, Thái Vũ Đế ngày càng bắt đầu coi những người tu tập Phật giáo là không đáng tin cậy và thậm chí là có khả năng nguy hiểm. Trên khắp Trung Hoa, các tăng sư Phật giáo đã nhiều lần cầm vũ khí nổi dậy chống lại quân vương của họ, hoặc chống lại những lý do ngớ ngẩn khác kiểu như “dân chúng không có đủ lương thực”. Tuy nhiên, giọt nước tràn ly chống lại Phật giáo ở Bắc Ngụy xuất hiện vào cuối năm 445 khi một cuộc nổi loạn nổ ra trong và xung quanh Hạnh Thành, thuộc khu vực ngày nay là Diên An, Thiểm Tây. Có hai điều mà ta cần ghi nhớ về sự bắt đầu cuộc nổi dậy này – thứ nhất là vùng Thiểm Tây từng là địa điểm tái định cư của các Bộ lạc Hung Nô, và do đó vẫn còn một lượng dân số đáng kể trong khu vực… nên về cơ bản thì đây là căn cứ của họ. Và điều thứ hai là vào những năm 440, mối quan hệ giữa Hung Nô và Thác Bạt Tiên Ti đang trị vì không được tốt đẹp gì cho lắm, vì những lý do mà tôi sẽ không đề cập đến vì đây đã là một bình luận dài đến nực cười rồi. Chỉ cần nói rằng, hai bộ tộc không hẳn là BFF vào thời điểm này.

Với tất cả những điều trên, không có gì đáng ngạc nhiên khi một cuộc nổi loạn khác cuối cùng lại nổ ra ở khu vực này – nơi mà Hung Nô kiêu hãnh và hùng mạnh một thời đã bị Tiên Ti thống trị. Cuộc nổi dậy đó – thứ cuối cùng sẽ trở thành ngòi nổ trên thùng thuốc súng đối với toàn bộ hệ thống tín ngưỡng Phật giáo ở Bắc Ngụy – sẽ được bắt đầu bởi một nhân vật được gọi là Cái Ngô. Cái Ngô không chỉ được những người cùng tộc Hung Nô của ông ta gia nhập, mà còn được một số lượng lớn người Hán còn lại xung quanh Trường An, những người không hài lòng với việc Tiên Ti được nắm quyền như Hung Nô… nói chung đây là hoàn cảnh kiểu “kẻ thù của kẻ thù là bạn”. Những nỗ lực của người dân địa phương nhằm dập tắt cuộc nổi dậy của Cái Ngô đã thất bại khi ngày càng có nhiều người dân tập hợp lại vì mục tiêu của ông, và đến cuối năm 445 hoặc 446, ông đã xưng là Thiên Đài Vương. Tất nhiên, sự xúc phạm trắng trợn này đến quyền lực của mình đã thu hút sự chú ý của Thái Vũ Đế, và vào đầu mùa xuân năm 446, ông đã huy động quân đội triều đình của mình chống lại phe nổi dậy. Giống như hầu hết mọi cuộc nổi loạn của nông dân, địa phương, nhỏ bé khác trong thời đại, một khi quân đội triều đình đã tham gia thì cuộc nổi dậy của Cái Ngô bị dập tắt hoàn toàn, và có vẻ như điều đó thật dễ dàng… xét cho cùng, nếu chỉ mất chưa đến một năm để tiêu diệt ông ta thì đó hẳn không phải rắc rối gì quá khó khăn đối với quân triều đình, còn người lãnh đạo cuộc nổi dậy cũng thường chỉ được nhắc đến thoáng qua. Quân lính của Cái Ngô bị đánh bại trong thời gian ngắn, còn bản thân thủ lĩnh cuộc nổi dậy thì buộc phải tháo chạy lên vùng núi và từ bỏ các thành trì mà ông đã tuyên bố chủ quyền.

Thái Vũ Đế đã đích thân dẫn quân tiến vào cố đô Trường An. Việc liệu bản thân Trường An có các phần tử nổi dậy cùng với quân chủ lực của Cái Ngô hay không không hoàn toàn rõ ràng cho lắm, nhưng điều rõ ràng là ít nhất Thái Vũ Đế cũng có những nghi ngờ của riêng mình. Ông đã ra lệnh cả toà thành trì phải tìm kiếm những dấu hiệu cho thấy dân chúng có thể là một phần của – hoặc nghĩ đến việc gia nhập thủ lĩnh cuộc nổi dậy… và những gì được tìm thấy dường như đã khẳng định nỗi sợ hãi đen tối nhất của ông. Tại một trong những tu viện Phật giáo ở Trường An, binh lính Ngụy đã phát hiện ra một kho vũ khí được giấu kín, được cho là “những chồng cung tên, giáo và khiên”. Từ góc độ lịch sử, vẫn còn nhiều tranh cãi về việc liệu những vũ khí này có thực sự dành cho Cái Ngô và quân nổi dậy của ông hay không, hay có thể chúng được dùng cho một số mục đích không liên quan khác. Rốt cuộc, chắc chắn đây không phải là lần đầu tiên các nhà sư cần phải cầm vũ khí. Nhưng đối với Thái Vũ Đế mà nói, không còn nghi ngờ gì nữa – kho vũ khí này là bằng chứng rõ ràng, không thể chối cãi rằng những người theo Phật giáo đã quay lưng lại với sự cai trị của ông và đã thề cầm lấy vũ khí chống lại ông. Nhà sử học Lý Cương viết, “cuộc điều tra sâu hơn cho thấy các dụng cụ nấu rượu và ‘những căn phòng bí mật, trong những căn phòng đó họ cùng với các con gái của các gia đình quyền quý thông dâm với nhau.’” Các nhà sư ở Trường An rõ ràng không chỉ nổi dậy chống lại ông mà còn chống lại chính trật tự của Ông trời và đức tin mà chính họ tuyên xưng. Ông ra lệnh ngay lập tức hành quyết rất nhiều người trong số họ, cùng với việc phá hủy tất cả các tượng Phật trong thành phố, triều đình tịch thu tất cả tài sản của Phật giáo. Tuyên bố thứ hai yêu cầu tất cả các nhà sư hiện đang được các cá nhân che chở phải giao nộp cho triều đình trước ngày ấn định, và rằng “nếu ai chứa chấp chúng, cả gia quyến sẽ bị hành quyết”.

Thái Vũ Đế đã đạt đến tận cùng của chân trời sự kiện đạo đức – một điểm mà một khi đã vượt qua thì không thể nào quay đầu. Giết các nhà sư có khả năng nổi loạn của một thành trì là một chuyện… người ta thậm chí còn có thể cho rằng điều đó là chính đáng. Nhưng chính ở đây, khi Thái Vũ Đế đang bấp bênh giữa cái công lý tàn nhẫn và sự tàn bạo vô độ thì Tể tướng Thôi Hạo đã đẩy ông đến bờ vực. Hạo đã nói với hoàng đế điều gì đó có tác dụng, thưa tâu, lũ nhà sư ở thành Trường An đã nổi loạn và tội đáng muôn chết… nhưng chúng chỉ là dấu hiệu của một vấn đề lớn hơn: chính là cả cái tôn giáo man rợ, ngoại lai đó! Thôi Hạo đã thuyết phục được hoàng đế rằng không chỉ mỗi cuộc nổi loạn này, mà tất cả các cuộc nổi loạn, thảm họa và sự thiếu sót trước đó trong thời kỳ trị vì của ông đều là một phần trong âm mưu rộng lớn của Phật giáo chống lại ông và triều đại của ông. Trong gần một thập kỷ, Khấu và Tể tướng Thôi đã thổi gió bên tai hoàng đế những điều chống lại thứ đức tin đối địch với họ, và vào năm 446, âm mưu của họ đã gây ra một kết quả khủng khiếp: một tháng sau khi ra lệnh tiêu diệt các tăng sư của Trường An, một sắc lệnh khác của triều đình đã được ban hành – bản viết tay của Thôi Hạo mà chúng tôi đã trích dẫn trước đó trong bài này; kẻ kết án tử hình tất cả Phật tử khắp Bắc Ngụy. Sắc lệnh này, hay còn được gọi là “sự diệt trừ Phật giáo” được biết đến như Pháp hoạ Đầu Tiên trong Hoạ Tam Vũ.

Nhưng tháng quan trọng giữa cuộc tàn sát ở Trường An và nạn diệt chủng diễn ra sau đó sẽ chứng tỏ tầm quan trọng đối với triển vọng dài hạn của Phật giáo ở phía Bắc Trung Hoa, cũng như nhiều người thực hành tôn giáo, kinh điển và thánh vật. Bởi vì bất chấp sự phản đối của cha mình, Thái tử Thác Bạt Hoảng bản thân là một Phật tử sùng đạo và đã cầu xin cha mình rút lại sắc lệnh tàn sát điên cuồng như vậy. Hai hoặc ba lần ông đã đến gặp cha mình và cố gắng thuyết phục ông thay đổi ý định, nhưng hết lần này đến lần khác bị gạt sang một bên bởi cơn thịnh nộ của cha ông và sự xảo quyệt của Tể tướng.

Và do vậy, rõ ràng là không thể nào ngăn chặn cuộc tàn sát sắp tới, Thái tử Hoảng đã sử dụng quyền lực đáng kể của mình để giảm thiểu thiệt hại. Sử dụng quyền kiểm soát một phần mà ông có đối với bộ máy chính quyền (đã được chuyển giao từng phần cho ông trong suốt thập kỷ trước), ông đã có thể trì hoãn việc ban hành sắc lệnh diệt chủng, đồng thời tiết lộ thông tin chi tiết của nó cho dân chúng một cách rộng rãi: sự diệt vong đang đến với những người theo đạo Phật, và những người coi trọng mạng sống, biểu tượng và kinh điển của họ sẽ phải ở rất xa khi cơn bão đó càn quét Bắc Ngụy. Ngụy thư đã kể về kết quả nỗ lực của Thái tử để cứu lấy những gì có thể cho các Phật tử miền Bắc Trung Hoa, “Hầu hết vàng, bạc, kho báu và tranh vẽ đều được che giấu. Nhưng các tòa nhà và thánh tích ở bất cứ nơi nào nhận được sắc lệnh đều bị phá hủy triệt để.” Mặc dù có nhiều nhà sư bị bắt và bị giết sau khi luật được thi hành, nỗ lực của Thái tử nhằm trì hoãn và cảnh báo họ trước thời hạn đã giúp phần lớn các nhà sư Phật giáo của nhà Ngụy có thể thoát khỏi cuộc tàn sát và chờ đợi lệnh nghiêm cấm đức tin của họ kết thúc. Tuy nhiên, điều đó phải đến năm 452, khi cháu trai của Thái Vũ Đế là Văn Thành Đế lên ngôi và chấm dứt cuộc thanh trừng.

[Kết luận ở Phần 4]

Phần 4

Nói như vậy, theo như nhà sử học Scott Pearce của trường đại học Western Washington trong ấn phẩm xuất sắc của ông trên tờ Biên giới lịch sử ở Trung Quốc, có tựa đề “A King’s Two Bodies” thì, “chúng tôi không rõ bản thân Văn Thành Đế có bất kỳ mối quan tâm lớn nào đến Phật giáo”. Quả thực, mặc dù thực tế rằng sự hồi sinh vĩ đại của Phật giáo sẽ bắt đầu dưới sự trị vì của ông, và một trong những di tích lịch sử vĩ đại nhất về đức tin sẽ được xây dựng chỉ cách kinh đô của ông 10 dặm, nhưng chưa bao giờ có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy ông đã đến thăm nó dù chỉ một lần. Tuy nhiên, trước sự nài nỉ của các quân sư và người hầu – có lẽ cũng như ý thức trung thành với niềm tin của chính cha mình, người mà ta nhớ là đã cố gắng hết sức để giảm thiểu sự tàn sát của Thái Vũ Đế đối với Phật giáo – Văn Thành Đế đã chính thức chấm dứt lệnh cấm của Bắc Ngụy về tôn giáo vào mùa đông năm 552. Và để thể hiện sự trị vì của ông sẽ chính thức xoá đi những “mâu thuẫn” của ông nội mình , ông thậm chí còn đi xa đến mức đích thân cạo đầu năm nhà sư như một biểu tượng của việc ngai vàng một lần nữa đón nhận tư tưởng Phật giáo. Tuy nhiên, bất chấp sự hòa giải của mình, ông vẫn tuân theo phong tục được ông nội áp dụng và nhận bùa hộ mệnh của Đạo giáo khi lên ngôi – một lần nữa là dấu hiệu cho thấy sự mâu thuẫn của cá nhân ông đối với đức tin.

Nhưng cũng chính triều đại của Văn Thành Đế vốn mâu thuẫn trong tư tưởng lại là triều đại mà cuối cùng đã đi theo con đường tôn giáo mà các hoàng đế Trung Hoa đã tránh hoặc chống lại cho đến thời điểm này: gắn cơ thể của chính Hoàng đế với cơ thể của chính Đức Phật. Pearce viết:

“Vậy là việc biến Bắc Ngụy thành một quốc gia Phật giáo đã bắt đầu, nó đạt đến đỉnh cao phát triển mạnh nhất trong nhiều thập kỷ sau đó ở Lạc Dương. Những bước đầu tiên trong quá trình này bắt đầu dưới thời trị vì của Văn Thành Đế. Ngay sau khi Văn Thành Đế lên ngôi vào năm 452, một sắc lệnh đã được ban hành, giải thích rằng Thái Vũ Đế – người vốn chỉ tìm cách để nhổ tận gốc nạn tham nhũng trong cộng đồng Phật giáo – đã bị các quan lại của mình hiểu lầm, và người kế ngôi là Hoảng đã rất đau buồn trước những gì đã xảy ra, ‘nhưng vì vốn chuyện đã rồi, quân đội và triều đình có nhiều việc phải làm, ông không bao giờ có thời gian để kịp sửa chữa lỗi lầm.’”

Trên thực tế, chính cái năm ấy – rất sớm trong triều đại của Văn Thành Đế trẻ tuổi – là hiện thân vật lý đầu tiên của một vị vua Thác Bạt được miêu tả hoàn toàn như một vị Phật. Trong Luận về Phật giáo và Đạo giáo có viết, “các quan được lệnh của triều đình phải làm một tượng đá giống người của Hoàng đế. Khi hoàn thành, trên cả mặt và lòng bàn chân đều có những viên sỏi màu đen, trông giống như những nốt ruồi ở phần trên và dưới cơ thể của Hoàng đế một cách bí ẩn.” Trong vòng hai năm, thử nghiệm ban đầu về việc kết hợp các hoàng đế nhà Ngụy với chính Đức Phật sẽ trở thành xu hướng chủ đạo và được mở rộng tới tất cả các hoàng đế trong quá khứ và tương lai của Bắc Ngụy, bắt đầu với việc năm vị vua đã trị vì, mỗi vị được đúc thành tượng Phật bằng đồng cao 16 feet. Nhưng đó không phải là dấu chấm hết cho bước đột phá phức tạp và cực kỳ tốn kém của Bắc Ngụy nhằm kết hợp tôn giáo với tính hợp pháp chính trị.

Khoảng một thập kỷ sau, vào đầu những năm 460, một dự án mới lớn hơn nhiều được bắt đầu cách kinh đô Bình Dao khoảng 16 km. Hang động Vân Cương chính thức được khởi công – một dự án cuối cùng kéo dài từ năm 465 đến năm 494 khi sự bảo hộ chính thức của triều đình kết thúc, nhưng sau đó thông qua sự bảo hộ tư nhân suốt quá trình cho đến khi các cuộc nổi dậy trong khu vực khiến việc xây dựng tiếp theo bị dừng vĩnh viễn vào năm 525, hơn 51.000 vị Phật đã được chạm khắc vào mặt đá tuyệt đẹp của Thung lũng sông Thạch Lệ với kinh phí khổng lồ. Trong số 51.000 tượng Phật, một số tượng lớn nhất và được trang trí công phu nhất đã mô tả chính các Hoàng đế Bắc Ngụy, đồng thời nhắc nhở lâu dài rằng hai vị này đã trở thành một: theo lời của học giả đương thời Vương Kiến Thuận thì, “Các vị Phật đã trở thành hoàng đế và các hoàng đế đã trở thành Phật”.

Tuy nhiên, thật kỳ lạ, bất chấp tất cả những điều này, có rất ít bằng chứng cho thấy bản thân Văn Thành Đế tỏ ra quan tâm đến giới luật Phật giáo. Với tất cả những nỗ lực và chi phí to lớn mà chính quyền của ông bỏ ra để gắn ông và dòng dõi ông với thần linh – bao gồm cả việc định hình vùng đất để phản ánh điều đó – không có tài liệu nào cho thấy ông từng thực sự đến thăm Hang động Vân Cương, bất chấp việc những chuyến du hành cực kỳ thường xuyên của ông trong suốt triều đại của mình, và bất chấp thực tế rằng chúng chỉ cách thủ đô của ông chưa đầy 10 dặm. Chắc chắn rằng nhiều người xung quanh ông – thê thiếp, con trai, nhiều quân sư thân cận và tri kỷ của ông – đều là Phật tử, và nhiều người rất sùng đạo… và vì vậy người ta tin rằng nếu như cá nhân ông không có cảm xúc mạnh mẽ nào theo cách này hay cách khác, thì sự ủng hộ ngầm cho các chính sách mà cá nhân ông không hào hứng sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với những người ủng hộ ông, đồng thời sẽ mang lại cho ông sự ổn định và tính hợp pháp hơn nữa chính là lý do chính đáng.

Nguồn:

Buddhachannel. China — “White Horse Temple 白馬寺”.

http://www.buddhachannel.tv/portail/spip.php?article4098

Lagerway, John and Lü, Pengzhi. Early Chinese Religion: The Period of Division (220-589 Ad)

Loewe, Michael. “The religious and intellectual background [of Later Han]” in the Cambridge History of China, vol. 1.

Mouzi. “Treatise for the Removal of Doubts.”

Pearce, Scott. “A King’s Two Bodies: The Northern Wei Emperor Wencheng and Representations of the Power of His Monarchy” in Frontiers of History in China.

Sima, Guang. Zizhi Tongjian, vol. 119-126

Wei, Shou. Book of Wei

Wei, Shou. Treatise on Buddhism and Daoism.

Wow, bạn đã đọc tới mức này sao! Đỉnh đấy! Chắc bạn thích lịch sử Trung Quốc nhỉ – tôi cũng thế. Nên là hãy ngó qua Podcast Lịch sử Trung Quốc nhé (https://thehistoryofchina.wordpress.com/). Hiện tại chúng ta đang ở thời kỳ đầu của nhà Đường, và nó tuyệt lắm đó! Cheers!

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *