Đặc điểm nhận dạng của Donut là bánh có hình dáng như chiếc nhẫn, có một lỗ nhỏ ở giữa. Bánh thường được phủ nhiều loại kem, socola và những hạt cốm nhiều màu sắc bên ngoài để trang trí.
Để giải thích sự ra đời của bánh Donut, người ta thường đưa ra rất nhiều những câu chuyện. Một số người người cho rằng, thời xa xưa, khi kỹ thuật nướng bánh còn đơn sơ, các thợ bánh thường gặp khó khăn trong việc làm sao để chiếc bánh chín đều từ trong ra ngoài. Vì thế, họ đã nảy ra ý tưởng khoét một lỗ nhỏ ở chính giữa để bánh có thể chín đều hơn. Từ đó, chiếc bánh Donut với hình dáng đặc biệt được ra đời. Bánh doughnut có thể khởi nguồn từ New Amsterdam với cái tên Hà Lan olykoeks–”oily cakes.” (có thể hiểu là bánh chiên với dầu). Trong thời gian đầu là thuộc địa Hoa Kỳ. Người nhập cư Hà Lan đã phát hiện ra bánh rán.
Tuy nhiên, cũng có một số người lại tin câu chuyện những chiếc bánh Donut gắn liền với thuyền trưởng Hanson Gregory. Khoảng năm 1847, Elizibeth Gregory, mẹ của thuyền trưởng đã làm ra những chiếc bánh tử bột chiên và sử dụng thêm gia vị hàng hóa của con trai bà như hạt nhục đậu khấu, quế, và vỏ chanh. Bà làm cho con trai Hansen và phi hành đoàn của mình những chiếc bánh rán dầu để họ có thể lưu trữ trên những chuyến đi dài và đồng thời giúp mọi người tránh khỏi bệnh còi, cảm lạnh. Bà Gregory đặt các loại hạt, hạt dẻ, quả óc chó vào chín giữa, nơi bột có thể khó chín và chiên và gọi tên là doughnut.
Khi thuyền trưởng Hanson Gregory đang lái tàu bằng 1 tay và tay còn lại đang cầm chiếc bánh mẹ mình chuẩn bị cho trước chuyến đi thì bất ngờ gặp một cơn bão khủng khiếp. Vì không muốn vứt chiếc bánh, thuyền trưởng Hanson Gregory đã nảy ra ý là xuyên tạm chiếc bánh vào 1 thanh gỗ để rãnh tay cầm, vững bánh lái. Con tàu sau đó an toàn vượt qua bão tố và ông lại tiếp tục được thưởng thức tiếp chiếc bánh của mẹ mình. Kể từ đó, thuyền trưởng Hanson Gregory đã lệnh cho những người đầu bếp trên tàu mỗi lần làm bánh đều phải đục 1 lỗ nhỏ ở giữa và đây chính là tiền thân của những chiếc bánh Donut bây giờ. Tuy có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng dù nguyên nhân từ đâu thì cũng chỉ có chính ông Gregory là người đã tạo ra đã tạo ra một lỗ giữa của olykoek của mình. Ông là người có công phát minh ra hình dạng lỗ trên bánh Doughtnut cổ điển. Ngày nay, thị trấn của Clam Cove, Maine có một tấm bảng danh dự của thuyền trưởng Hanson Gregory, người phát minh ra các lỗ trong chiếc bánh rán.
Trong Trung Chiến tranh thế giới thứ I, hàng triệu người Mỹ nhớ nhà “doughboys” được phục vụ doughtnut bởi các tình nguyện viên nữ, phục vụ những người lính tạo một cảm giác như đang ở nhà cho họ. Năm 1920, một người Do Thái tị nạn từ Nga, Adolph Levitt tạo ra các máy bánh rán tự động đầu tiên. Doughnut có một bữa ăn sáng và thức ăn yêu thích thoải mái cho người Mỹ từ bấy giờ. Đến năm 1934, tại Hội chợ Thế giới ở Chicago, bánh được quảng cáo là thực phẩm yêu thích nhất của thế kỷ. Doughnut đã trở thành món ăn yêu thích. Truyền thuyết nói rằng, bánh nhúng có phần chocolate, café…ở trên đã trở thành một xu hướng khi vào một ngày nữ diễn viên Mae Murray vô tình đánh rơi một chiếc bánh rán trong ly cà phê của mình tại Deli Lindy trên sân khấu Broadway.
Trong chiến tranh thế giới thứ II, Hội Chữ thập đỏ phụ nữ, được gọi là Dollies Doughnut thông qua bánh rán nóng đã đem đến cho những người lính chiến đấu sự quan tâm, yêu thương. Từ chiếc bánh rán hình chiếc nhẫn đơn giản, Donut ngày càng đa dạng và hấp dẫn hơn với những hương vị khác nhau cùng những cách trang trí vô cùng sáng tạo. Bạn cũng có thể kết hợp với trà xanh để làm ra những chiếc bánh Donut trà xanh thơm phức, ngọt lịm socola. Ngày nay, Donut đã trở thành một loại bánh phổ biến ở khắp nơi trên giới và chỉ riêng ở nước Mỹ mỗi năm đã có hơn 10 nghìn chiếc Donut được làm ra.
Hình dưới: Quá trình phát triển bánh Donut.
