Kẻ giết người có thể phi tang xác nạn nhân và lau sạch máu, nhưng nếu không có hóa chất lau dọn cực mạnh, các hạt máu li ti vẫn sẽ bám lại trong nhiều năm. Để tìm ra vết máu dù đã được lau sạch, một trong những chất điều tra viên sử dụng là luminol. Khi xịt luminol lên bề mặt khả nghi, tắt điện và đóng kín cửa sổ, bề mặt dính máu sẽ phát ra ánh sáng xanh dương ngả xanh lá trong khoảng 30 giây.
Theo Chemistry World, luminol được đặt tên từ thập niên 1930 nhưng thực tế đã được phát hiện từ đầu thế kỷ 20. Tới năm 1937, nó mới bắt đầu được sử dụng trong pháp y để tìm ra vết máu bởi nhà khoa học pháp y người Đức, Walter Specht. Nghiên cứu của ông chỉ ra vết máu càng lâu, ánh sáng tạo ra càng kéo dài và sáng.
Luminol (C8H7O3N3) có dạng bột, khi sử dụng được trộn cùng với hợp chất dạng lỏng chứa hidro peroxit (H2O2 – oxi già), hidroxit (OH-) và một số hóa chất khác.
Phản ứng giữa hidro perexit và luminol có khả năng phát sáng nhưng để ánh sáng phát ra đủ mạnh nhìn thấy được bằng mắt thường cần có chất xúc tác để làm tăng tốc độ phản ứng. Các nhà khoa học phát hiện ra rằng huyết sắc tố hemoglobin trong máu có tác dụng như vậy. Vì thế mục đích thực sự của phản ứng hidrô perexi – luminol là để xác định liệu có tồn tại chất xúc tác hemoglobin hay không.
(ST)
