BẢN KỶ KIỀU TRỊ NHỊ THẾ (GEORGE II) CHÉP:
Ngày 10 tháng 7, 1742 (niên hiệu Kiều Trị Nhị thế thứ 15): vua truyền lệnh sai Ước Hàn-Đạt Nhĩ Lâm Phổ Nhĩ (John Dalrymple), đệ nhị bá tước Đại Gia Thê (Stair) đem 16.000 binh đổ bộ lên Áo Tư Thãn Đức (Ostend), Hà Lan. Hội quân với 16.000 quân Hán Nhược Oai (Hannover) và các quân Áo Địa Lợi, Hà Lan và Hắc Sâm Châu (Hesse), quân số tổng cộng khoảng 44.000. Các quân nguyện tuân giữ di chiếu của Tiên đế La Mã Thần Thánh Tạp Nhĩ Lục Thế (Karl VI), lập Nữ hoàng Mã Lệ-Đặc Lôi Tây Á (Maria Theresia) nối vị ngai vàng nước Áo, từ đó gọi là Đại quân Di chiếu.
Ngày Tháng 1, 1743 (niên hiệu Kiều Trị Nhị thế thứ 16): Sai Đại Giai Thê tiến đánh Đức, để lại một số quân Hắc Sâm Châu, Áo giữ đất Hà Lan. Bấy giờ Hà Lan mộ được 20.000 quân, nhưng nội bộ bất hoà, cho nên không theo kịp quan quân qua Đức. Tướng Áo là Á Luân Bối Cách (Arenberg) quận công đề xuất đánh Bái Nhân (Bayern), vua không nghe. Hán Nhược Oai là đất thang mộc của bản triều, vua sợ giặc đến phá, nên sai tiến binh dọc theo bờ bắc sông Mỹ Hà (Main).
Ngày 17 tháng 6, đại quân đóng trại giữa Khắc Tư Nặc Tư Hải Mỗ (Kleinostheim) và Óc Sá Phiên Bảo (Aschaffenburg).
Ngày 19 tháng 6, vua thân đem 25 khối kỵ binh Anh-Hán Nhược Oai hội với đại binh. Vua tự làm tướng thống suất Đại quân Di chiếu, có hoàng tử Uy Liêm-Áo Cổ Tư Đô (William Augustus), tức quận công Khảm Bá Lan (Cumberland) theo hầu.
Ngày 27 tháng 6, đang đêm, lui quân về Cáp Não (Hanau).
Bấy giờ tướng giặc Pháp là Nặc A Lặc Tư (Noailles) quận công đem 45.000 quân quấy nhiễu đường tiếp vận. Đại quân Di chiếu do vậy mà hao hụt, thiếu lương trầm trọng. Vua sợ quân sĩ đói khát thiếu thốn, bèn truyền triệt binh từ Óc Sá Phiên Bảo về hướng tây, dọc theo bờ bắc sông Mỹ Hà. Không ngờ quận Nặc A Lặc Tư đã nhăn giữ Đức Đình Căn (Dettingen) tạo thế “bẫy chuột”, chặn đường lui về Cáp Não. Y sai Cách Lạp Bàng (Gramont) quận công án ngữ 23.000 quân từ đồi Đức Đình Căn tới đồi Tư Phái Tác Đặc (Speissart), trước mặt có đầm lầy, lại đặt súng lớn dọc bờ nam sông Mỹ Hà đánh trực diện với quan quân. Tự Nặc A Lặc Tư cầm 12.000 binh chiếm Óc Sá Phiên Bảo đặng làm bọc hậu, y cho là các quân Di chiếu bị kẹt giữa sông Mỹ Hà bên trái, rừng đồi bên phải, sẽ dễ bề vây diệt, hòng lập mưu bắt vua làm tù binh.
Ngày 26 tháng 7, vua đốc các quân Di chiếu phá được giặc Pháp ở trận Đức Đình Căn
Buổi sáng, đem các quân Anh, Áo, Hán Nhược Oai dàn trận, mất tới 6 tiếng mới xong. Đặt hai tuyến bộ binh ở giữa, có kỵ binh che sườn. Tướng giặc Nặc A Lặc Tư đã nhiều lần căn dặn Cách Lạp Bàng giữ thế cố thủ, đợi Nặc A Lặc Tư chặn hậu. Song Cách Lạp Bàng nôn nóng không nghe, giữa trưa xua kỵ binh đánh cánh trái quân ta [Quân Di chiếu]. Các quân bộ, kỵ Anh có hơi lùi, sau đó chỉnh đốn lại. Súng lớn giặc từ bờ nam sông Mỹ Hà trút mưa đạn xuống cánh trái, quan quân nguy khốn, con chiến mã của vua hoảng sợ, mang vua trên lưng chạy về hậu tuyến. Hiệu quan Tái Lặc Tư-Đặc Lạp Ba (Cyrus Trapaud) kịp ngăn lại (sau vua nhớ công, thưởng rất hậu). Vua nhanh chóng thúc ngựa trở lại tiền tuyến, hô to ủy lạo ba quân. Quận A Luân Bối Cách (Ahrenberg) dong ngựa tới khuyên vua nên tránh làn đạn giặc, vua giận mắng: “Ngươi nghĩ ta ở đây để làm gì, làm thằng hèn à?”
Ít lâu sau, Vệ binh Pháp xếp hàng tiến lên đánh bộ binh trung quân Anh. Quân Anh chia ra nhiều trung đội, giương thạch cơ điểu thương xả liên hồi ba loạt đạn, quân giặc đổ gục chết như lá rụng, kẻ nào còn đứng được cũng vội tìm đàng chạy thoát thân. Các quân kỵ Anh-Áo cánh phải cũng phá tan được giặc. Quan quân đuổi giặc qua đầm lầy rồi thu lại Đức Đình Căn. Lúc 4 giờ chiều, các quân toàn thắng.
Trận Đức Đình Căn này, quan quân đập tan binh mạnh của Pháp tặc, tổn thất 2.332 quân mà giặc chết hại lên đến 4.000–5.000. Khi trước Mã Nhĩ Bảo (Marlborough) quận công đã phá được quân Pháp ở Bố Luân Hải Mẫu (Blenheim), làm nhụt cái chí hung hăng của Lộ Dị Thập tứ (Louis XIV), đến nay Lộ Dị Thập ngũ (Louis XV) nối ngôi, lại quen thói hung đồ của tổ phụ. Nào ngờ Thánh Thiên tử yêu chuộng việc nghĩa, quyết giữ nền hòa bình Châu Âu, ngài tự cầm cờ lệnh đem quân tỳ hổ giáng đòn sấm sét, bọn Nặc A Lặc Tư, Cách Lạp Bàng đều hãi hùng, khắp triều đình Lộ Dị Thập ngũ ở Phàm Nhĩ Tái Cung (Versailles) phải rúng động. Uy thanh Anh Quốc lại vang xa khắp thiên hạ. Tiếc là vua không nghe lời Đại Gia Thê, cho là các quân lâu ngày không quen chiến tranh, thành ra tiếp tục lui về Cáp Não, không diệt tận gốc quân giặc! Quân sĩ do vậy mà lại phải vào sinh ra tử trong nhiều năm sau. Lại có người chê vua chỉ lo giữ đất Hán Nhược Oai, để quân sĩ nước Anh phải tan xương, đổ máu ngoài lục địa xa xôi, luận điểm này thật quá gay gắt!
Nói qua về Thánh Thiên Tử, vua quả thật gan dạ dũng mãnh, bên trong dùng bọn tể thần hiền lương, nước nhà thái bình thịnh trị, bên ngoài trấn áp phản loạn, mở mang bờ cõi. Nước Pháp quen thói cũ từ thời Lộ Dị Thập tứ, hung hăng gây chiến. Vua nổi giận xuất chinh, quất một trận Đức Đình Căn mà nó sợ mất mật. Đoạn sau giặc Nhã Các Bỉ Đắc (Jacobite) mấy triều tiên vương tiên hậu không dẹp được, vua sai hoàng tử Khảm Bá Lan quét sạch ở trận Ca Lạc Đăng (Culloden), khiến nó hồn xiêu phách lạc, từ đó không dám ho he. Đế quốc mở rộng tới Thiên Trúc (Ấn Độ) và Gia Nã Đại (Canada), quân đi đến đâu địch tan đến đấy, cách mạng công nghiệp khuynh đảo vũ trụ cũng manh nha từ thời của vua. Suốt 2 thập kỉ vua ngự ngai cao, cho Anh quốc công nghiệp rực rỡ, không thẹn với các triều đại trước! Nhưng tính cách bốc đồng, nóng nảy, quan hệ với vua cha và thái tử có nhiều xung khắc, khiến hoàng thất bất hòa, đó là điều đáng trách!
Đoàn Hoàng Văn, Phạm Gia Huy